Trước giao thừa một ngày, nội thành Hải Thành đã gần như trống không, chỉ lác đác một vài trung tâm thương mại lớn còn mở cửa, tuy nhiên cũng vô cùng đìu hiu. Tuyết vẫn chưa ngừng rơi, gần chiều trông ra ngoài chỉ thấy một màu trắng xóa, tuyết đọng ngập trên bệ cửa sổ.

Cả đêm qua Cố Khinh Chu không ngủ. Y khẽ hé rèm cửa nhìn sắc trắng buốt lạnh tựa băng, lại thấy màu trời vẫn đen như đổ mực, hai thứ màu sắc đối lập đụng độ càng mang tới cảm giác lạnh lẽo cùng cực. Cố Khinh Chu khép rèm lại.

Tuy trong tủ lạnh đã có sẵn nguyên liệu nhưng y không làm cơm, chỉ nấu một cốc mì rồi ngồi trên thảm cạnh bàn trà chờ mì chín. Chốc chốc lại có tin nhắn điện thoại gửi đến, đều là lời nhắn chúc mừng năm mới từ bạn bè. Cố Khinh Chu đọc hết rồi trả lời vài câu, sau đó đặt điện thoại xuống.

Dạo trước hai mẹ con cãi lộn, nhưng mẹ Cố cho rằng đứa con trai sẽ không thật sự để bụng. Chỉ là bởi lâu rồi không liên lạc, trong lòng bà cũng có đôi chút bất an. Sắp giao thừa mà vẫn chưa thấy Cố Khinh Chu biểu lộ bất kì động thái nào rằng sẽ trở về thành phố A, bà rốt cuộc không nhịn nổi nữa, chủ động gọi điện cho y.

Mì đã ngấm, Cố Khinh Chu lấy dĩa đảo qua đảo lại vài lần. Nghe tiếng chuông điện thoại, y bấm nhận cuộc gọi tức thì mà không nghĩ ngợi nhiều. Cho đến khi tiếng mẹ Cố vang lên từ phía đầu bên kia, y mới khựng lại, vô thức liếc nhìn màn hình.

Không biết có phải mẹ Cố áy náy hay chăng mà giọng điệu chẳng còn hùng hổ như trước, thái độ hòa hoãn hơn hẳn, thậm chí còn mang theo chút gì đó ngượng ngùng xấu hổ: “Khinh Chu con à, ngày mai là năm mới rồi, con đặt vé máy bay về đi. Người một nhà dù sao cũng phải quây quần ăn một bữa cơm sum họp mới ra dáng chứ.”

Cố Khinh Chu nghe vậy đặt dĩa xuống, đẩy cốc mì ra xa, đâu đây trong thanh âm trầm thấp là ý tứ mỉa mai kín đáo: “Bữa cơm ấy ạ? Bữa cơm kiểu gì cơ? Cả nhà ăn cơm sum họp trong bệnh viện à?”

Nhà họ Cố bây giờ ngoài dì giúp việc lo cơm nước thì chẳng còn mống nào, ai ai cũng đang túc trực bên giường ba Cố trong phòng chăm sóc đặc biệt. Cho dù Cố Khinh Chu vẫn ở lại Hải Thành, cũng không có nghĩa là y mù tịt mọi tin tức ở thành phố A.

Nét mặt mẹ Cố thoáng giận dữ, lại trộn lẫn vẻ hoảng hốt khó tả. Bà cảm thấy đứa con trai này sinh ra đời chính là để khắc chết mình, song đành miễn cưỡng kìm nén cơn phẫn nộ, ngọt ngào đáp: “Nếu đã biết ba đang nằm viện thì cớ gì con có thể ở ngoài vui vẻ rong chơi, người khác trông vào sẽ mắng con bất hiếu đấy?”

“Người khác nói gì mặc họ.” Cố Khinh Chu lặng lẽ liếc nhìn cốc mì bốc hơi nghi ngút, thấy chiếc dĩa nhựa trắng đang dần chìm xuống cũng không buồn đưa tay nhấc lên: “Ông ấy già đầu còn thích chơi trống bỏi, tối ngày cặp kè mấy cô ả người mẫu đáng tuổi con cháu mình, làm trò cười cho cả thiên hạ lâu rồi. Ông ấy không nằm viện thì còn ai vào đây?”

Đối với người cha trên danh nghĩa, Cố Khinh Chu hoàn toàn chẳng có cảm giác gì. Một năm cha con gặp nhau nhiều lắm chỉ được đôi lần, đến mặt ba mình y cũng chẳng nhớ rõ, kí ức duy nhất in trong đầu là một cặp mắt già nua ngầu đục, luôn hau háu dán chặt lên thân hình đám phụ nữ xung quanh.

Mẹ Cố tức giận đến phát run mười đầu ngón tay, nín lặng hồi lâu vì không thể phản bác. Bà đứng dậy khỏi ghế sofa, đi đi lại lại trong phòng khách xa hoa lạnh lẽo: “Hôm trước ba con lại phẫu thuật, bác sĩ nói rằng bây giờ chỉ có thể đi một bước dè chừng một bước, xem chừng cũng không thể cầm cự lâu nữa. Coi như mẹ xin con về nhà một chuyến đi, mẹ biết con không định tranh giành, nhưng như vậy chỉ càng vô tình làm mấy đứa Cố Đình được lợi. Ba con tỉnh dậy mấy lần đều chẳng thấy bóng dáng con đâu, cho dù ngoài miệng không nói ra nhưng chắc chắn trong lòng không vui vẻ. Cứ đà này chẳng phải tới lúc phân chia tài sản mẹ con mình sẽ phải chịu thiệt thòi à?”

Bà vòng vo tam quốc một hồi cuối cùng cũng chỉ nhằm mục đích tính toán những món tài sản kia. Cố Khinh Chu mặt không biểu cảm, vô thức chạm tay lên gò má, như thể cảm giác rát cháy tê tái sau cú tát vẫn còn. Toàn thân y phát lạnh: “… Chờ đến lúc đó rồi tính.”

Cố Khinh Chu đứng dậy: “Đến lúc đó khỏi cần mẹ nhắc con cũng sẽ về.”

Nói đoạn, y ngắt điện thoại. Cốc mì đã nguội không thể ăn nữa, Cố Khinh Chu thu dọn bàn sạch sẽ rồi vứt mì vào thùng rác. Xong xuôi, y đưa mắt nhìn bốn phía, đứng chết lặng hồi lâu vẫn chẳng biết mình nên làm gì – hay tối thiểu là nên dùng thứ gì để giết thời gian.

Họ hàng nhà Giang Nhứ không có bao nhiêu người, nhưng hàng xóm thì ra vào nhà hắn nườm nượp. Lần nào cũng phải đến bốn, năm người chen chúc trong phòng khách cười nói rôm rả, vỏ hạt dưa chất đống trên sàn. Thậm chí vài kẻ to gan thích đi quá giới hạn còn đòi giới thiệu bạn gái cho hắn, cho rằng một thanh niên trẻ tuổi tuấn tú nhường này mà vẫn độc thân thì quá phí của giời.

Mặc dù mẹ Giang chưa phút nào quên việc lớn cả đời của con mình, nhưng cũng biết hắn không có cả hứng thú lẫn lòng kiên nhẫn để đi gặp gỡ xem mặt. Bà bèn lập tức đỡ lời: “Thằng bé tự có chủ đích của nó, người lớn chúng ta đừng giục giã làm gì, cái duyên cái số tự khắc sẽ đến thôi. Hơn nữa hiện giờ nó còn bận công việc, nhà riêng cũng đã mua được đâu, con gái nhà người ta đi theo nó rồi hít khí trời mà sống à?”

Giang Nhứ nhìn nhà cửa bị khách khứa tới bày bừa lanh tanh bành thì ngán ngẩm tột bậc, tuy vậy hắn không thể lên tiếng, đành ngoan ngoãn giúp mẹ pha trà rót nước rồi kiếm cớ lẻn xuống nhà đi dạo. Đám ranh con láng giềng tụ tập gần đó đốt pháo hoa cầm tay, tiếng nổ vang lên lốp bốp giòn giã.

Sáng nay Giang Nhứ đến tiệm sửa xe của Đại Hoành hỗ trợ, chiều về lại giúp mẹ Giang thết đãi họ hàng làng xóm, đến giờ mới có thời gian thở. Hắn tìm một băng ghế công cộng ven đường ngồi xuống, chẳng màng để ý đến những bông tuyết li ti rơi lác đác xung quanh, đeo tai nghe lên gọi điện cho Cố Khinh Chu.

Chỉ trong vòng ba giây đầu bên kia đã nhấc máy, vẫn là sự im lặng hoàn toàn không tiếng động, chẳng có chút không khí Tết nhất nào. Giang Nhứ nhủ thầm không phải cái đồ ngốc này định ăn Tết một mình đấy chứ, bèn không kìm lòng được hỏi: “Cậu vẫn đang ở Hải Thành đấy hử?”

Cố Khinh Chu không gật không lắc, nói lảng sang chuyện khác: “Cậu xong việc rồi à?”

Giang Nhứ đáp: “Mai giao thừa rồi, tôi còn tưởng cậu sẽ về thành phố A cơ.”

Dù gì Cố Khinh Chu cũng đâu phải trẻ mồ côi, trừ khi công việc không có ngày nghỉ thì làm gì có ai không về nhà đón giao thừa?

Suốt ngần ấy năm Cố Khinh Chu gần như luôn sống một mình, chẳng mấy quan tâm đến năm cũ năm mới, chỉ thấy hơi nhớ Giang Nhứ mà thôi. Y nằm ngửa trên ghế sofa, che tay lên mắt ngăn ánh đèn chói lóa, không biết nói sao để đối phương hiểu được xưa nay mình chưa bao giờ thực sự có người thân. Một lúc lâu sau, y bật cười: “… Thật ra ở Hải Thành cũng đông vui lắm.”

Lũ trẻ con đang đứng bên đường ném pháo hoa, một đoạn pháo đã cháy phân nửa lăn đến nền đất bên cạnh Giang Nhứ, bị hắn thẳng chân giẫm lên mà không buồn liếc mắt, sau đó đá ra xa. Hắn đổi tư thế ngồi: “Thôi dẹp đi, cậu tưởng tôi chưa ăn Tết ở Hải Thành bao giờ chắc, có mà chỗ nào cũng trống không, đến trộm cắp cũng cóc thèm mò ra ngoài.”

Tuyết dần phủ một lớp mỏng trên vai Giang Nhứ, hắn bèn đưa tay phủi đi sạch sẽ.

Cố Khinh Chu âm thầm cào ghế sofa: “Cậu đang chống lại tôi đấy hả?”

Nghe giọng điệu y, Giang Nhứ vui vẻ đáp: “Lại còn dỗi dằn gì nữa, cậu qua nhà tôi ăn Tết đi.”

Cố Khinh Chu nghe vậy hơi giật mình: “Cái gì?”

Giang Nhứ nói: “Cậu qua nhà tôi ăn cơm tất niên đi. Giờ mới sáu giờ, tết nhất đường sá vắng vẻ, cậu lái xe nhanh chút xíu thì tầm chín rưỡi đã đến nơi rồi. Nhà tôi neo người, có thêm cậu ăn cơm càng vui.”

Trái tim Cố Khinh Chu như thắt lại, chẳng biết là do hồi hộp hay bối rối. Y vô thức ngồi dậy khỏi ghế sofa rồi trượt mình xuống thảm, hàng mi khẽ rung lên vì căng thẳng, lòng bàn tay đặt trên đầu gối rịn mồ hôi. Y mím môi, nói giọng khô khốc: “Tôi sợ mẹ cậu…”

Giang Nhứ cảm thấy Cố Khinh Chu đúng là khi cần bướng bỉnh thì lại mềm lòng, khi không cần bướng bỉnh lại ương ngạnh hết chỗ nói – ví như bây giờ, hoặc là lúc ở trên giường chẳng hạn: “Chậc, mẹ già nhà tôi chứ có phải hổ báo gì đâu, ăn thịt cậu được chắc?”

Vừa dứt lời, hắn bỗng sực nhớ đến cảnh hồi nhỏ mắc lỗi bị bà bô vác gậy đuổi đánh suốt nửa con đường, bèn lập tức nín bặt.

Sau rốt hắn cũng lên tiếng: “Để tôi gửi vị trí cho cậu. Cậu đến nơi thì gọi điện, tôi sẽ ra đón.”

Thị trấn nhỏ lắm ngõ hẻm nhằng nhịt, bản đồ định vị chỉ tìm được những địa điểm lớn. Giang Nhứ ngẫm nghĩ một hồi rồi gửi Cố Khinh Chu địa chỉ bến xe, sau đó rũ tuyết trên người, quay lưng bước lên nhà.

Hàng xóm qua chơi đã về từ lúc nào chẳng hay, chỉ còn lại một núi vỏ hạt dưa cùng đám cốc nhựa bề bộn khắp bàn. Mẹ Giang cầm chổi quét tước, Giang Nhứ giúp thu dọn bàn, chép miệng lẩm bẩm: “Cứ như bị nạn dịch châu chấu càn quét ấy.”

Mẹ Giang bảo: “Toàn hàng xóm láng giềng cả, làm sao đuổi về được?”

Giang Nhứ không lên tiếng, vài phút sau mới làm bộ thản nhiên nói: “Mẹ này, con có một người bạn đang ở đây, nhưng mà bây giờ nhà trọ khách sạn đóng cửa hết rồi, con định mời bạn qua ở nhà mình mấy ngày, cùng ăn Tết cho vui.”

Mẹ Giang đang lau bàn, nghe vậy cũng không ngẩng đầu lên: “Quan hệ với mày có tốt không?”

Giang Nhứ gật đầu nghiêm túc: “Thân lắm.”

Mẹ Giang bảo: “Đã thân thiết với mày thì ở đây vài ngày cũng có vấn đề gì to tát đâu, mẹ chỉ sợ nhà nhỏ ít phòng, bạn mày ở không thoải mái.”

Được mẹ đồng ý, mặt mũi Giang Nhứ bất giác sáng bừng: “Không sao, cậu ấy ở phòng con là được. Bọn con là bạn học cấp ba, cậu ấy học giỏi lắm, hồi đó thi đỗ vào đại học A hắn hoi đấy.”

Các bậc phụ huynh thường cực kì có hảo cảm với mấy đứa nhỏ gương mẫu giỏi giang, mẹ Giang thấy Cố Khinh Chu không cùng một giuộc với đám bạn bè chơi bời lêu lổng mà Giang Nhứ từng giao du thì lấy làm nhẹ nhõm, lau tay vào tạp dề nói: “Người ta thi đỗ đại học A chứ có phải mày thi đỗ đâu mà hớn ha hớn hở thế? Mày mà được bằng một nửa con nhà người ta thì mẹ đã sướng.”

Mấy câu này mẹ Giang xưa kia đã nói đến nhàm tai, Giang Nhứ chỉ coi như gió thoảng, nghe xong quên sạch. Hắn cắm đầu dọn dẹp vệ sinh, không muốn Cố Khinh Chu đến nhà thấy mọi thứ bừa bãi khó coi.

Chưa bao giờ Cố Khinh Chu cảm thấy cần nhiều can đảm để làm một việc gì đó đến thế này, hai tay trơn trượt mồ hôi nắm chắc vô lăng, lái xe trên con đường bốn bề vắng lặng. Đèn pha soi sáng quãng đường phía trước bằng phẳng thông suốt, nhưng lại là nơi y chưa đi qua bao giờ, chỉ có thể dò dẫm chạy theo hướng dẫn của bản đồ định vị.

Giang Nhứ lo Cố Khinh Chu đi nhầm đường, thoắt cái lại gọi điện hỏi y đang ở đâu. Cố Khinh Chu căn cứ vào cột mốc ven đường báo cho hắn biết vị trí, Giang Nhứ sau khi xác nhận lộ trình của y là chính xác mới chịu cúp điện thoại.

Gần đến bến xe, Cố Khinh Chu gọi hắn: “Số nhà cậu là bao nhiêu? Để tôi lái xe thẳng đến đó.”

Thời tiết bên ngoài rất lạnh, y không muốn Giang Nhứ vì đón mình mà phải đi xa.

Giang Nhứ không thể để một tên mù đường tự mình mò số nhà được: “Có nói cậu cũng không tìm nổi đâu. Ở đây nhiều ngõ ngách, xe hơi đi vào thì dễ chứ đi ra khó lắm. Cứ ở đấy chờ, tôi qua với cậu ngay.”

Cố Khinh Chu mím môi vỗ vỗ tay lái, đoạn tò mò hỏi: “Cậu định đi xe đạp tới đón tôi hả?”

Giang Nhứ bị y chọc cho bật cười: “Ông đây sẽ dùng hai cẳng chân đến đón tiếp cậu, được chưa?”

Cố Khinh Chu ngắt điện thoại, mặc kệ hắn. Trong xe bật máy sưởi ấm áp vô cùng, song cũng khó mà làm dịu đi tâm trạng lo lắng hồi hộp của vị chủ nhân. Cố Khinh Chu quyết định xuống xe hít thở cho tỉnh táo lại một chút, sau đó đưa mắt quan sát cảnh vật xung quanh.

Đêm khuya, trên đường vẫn lác đác vài tiệm ăn còn sáng đèn, có lẽ chủ quán là người địa phương nên không cần dọn hàng nghỉ Tết. Dây điện nối chằng chịt trên cột điện, một lớp tuyết dày đóng từ đầu này sang đầu kia. Trên biển báo cạnh bến xe dán chi chít áp phích quảng cáo, Cố Khinh Chu đưa tay thử bóc nhưng không được, bèn thôi.

Nhìn cảnh tượng trước mặt, Cố Khinh Chu như bỗng nhớ lại điều gì, đứng ngẩn người một lát, hai tay thọc sâu trong túi áo khoác, sau đó đi qua đi lại bên cạnh chiếc xe hơi. Đúng lúc này có tiếng đóng cửa vang lên từ một tiệm sửa xe gần đó, chiếc cửa cuốn bằng sắt sập xuống tạo ra thứ âm thanh chói tai, phá tan màn đêm tĩnh lặng.

Cố Khinh Chu bất giác ngoái sang, trông thấy một gã đàn ông khoác áo da, cắt đầu đinh, râu ria xồm xoàm, trong bóng tối không nhìn rõ mặt. Y rời mắt, ánh đèn đường vàng vọt chiếu xuống soi rõ gương mặt lạnh lùng lãnh đạm.

“Ơ?”

Một giọng nói thô nặng bỗng cất lên bên tai Cố Khinh Chu: “Ông có phải là… Cố Khinh Chu đấy à?”

Cố Khinh Chu nhìn về nơi phát ra âm thanh, thấy là tay thợ sửa xe vừa nãy thì vô thức vươn thẳng người, mượn ánh đèn quan sát đối phương. Người kia mày rậm mắt to, nom có gì đó vô cùng quen thuộc.

Cố Khinh Chu do dự lên tiếng: “Đại Hoành?”

Đại Hoành sang sảng đáp lại: “Ầy, chẳng tôi thì còn ai vào đây? Lúc nãy từ xa nhìn lại tôi còn tưởng mình nhận nhầm người, không ngờ lại là cậu thật. Thế nào mà lại tới đây? Tới gặp Giang Nhứ hả?”

Gã ngừng lại trong thoáng chốc rồi mới hỏi thêm câu cuối cùng.

Năm xưa Đại Hoành thân với Giang Nhứ nhất, đương nhiên biết tường tận mọi thứ về bọn y, có thể nói gã là người ngoài cuộc duy nhất chứng kiến quãng thời gian thanh xuân ngốc nghếch ấy. Cố Khinh Chu gõ ngón tay đôi lần trong túi áo, gật đầu nói: “Ừm, nghỉ Tết rỗi rãi nên tôi về đây chơi.”

Đại Hoành thật thà: “Thế thì ông cũng quá rảnh rồi. Thế Giang Nhứ đâu, sao không trông thấy nó?”

“Lát nữa cậu ấy tới.” Cố Khinh Chu trả lời.

Ở thị trấn nhỏ này rất hiếm khi nhìn thấy xe sang, chiếc xe hơi của Cố Khinh Chu dù chẳng cố ý vẫn hết sức nổi bật, nếu không phải vì quá chăm chú ngắm nó thì chưa chắc Đại Hoành đã nhận ra y. Nhìn lại Cố Khinh Chu phục sức ngăn nắp thẳng thớm, gã bùi ngùi nói: “Xe ông đẹp quá! Mà này, lần đầu tiên ông đặt chân đến đây, tôi kiểu gì cũng phải mời ông một bữa mới đáng mặt chủ nhà chứ. Tiệm ăn bên kia có món sủi cảo được lắm, đi, đi ăn với tôi.”

Tính cách Đại Hoành cực kì hào sảng, nói xong là vẫy Cố Khinh Chu đi luôn. Cố Khinh Chu hơi chần chừ vì sợ Giang Nhứ tới không gặp mình, song cũng không tiện từ chối, đành gật đầu đồng ý.

Đại Hoành đi trước dẫn đường, rất dễ nhận ra bước chân gã hơi tập tễnh. Cố Khinh Chu không biết gã từng gặp nạn bị đánh gãy chân, buột miệng hỏi: “Cậu bị ngã à?”

Đại Hoành quay đầu nhìn y, kế đến khoát tay cười nói: “Ngã gì đâu, mấy năm trước tôi ngu dại gây tội với người ta nên bị đánh, từ đó chân thành tật cà nhắc thôi.”

Tuy gã không để bụng nhưng Cố Khinh Chu không khỏi ngại ngùng vì lỡ lời, lại chẳng biết nên an ủi thế nào cho phải. Hai người đi vào tiệm ăn vắng ngắt rồi tìm bàn ngồi xuống. Đại Hoành gọi cô bé nhân viên đang gà gật ngồi ngủ cạnh quầy: “Em ơi, cho gọi món với.”

Quán nhỏ, thực đơn không mấy đa dạng, lại đang là giữa đông nên càng ít lựa chọn hơn, chỉ có một ít sủi cảo đông lạnh và mì nước. Đại Hoành gọi hai đĩa sủi cảo lớn với mấy chai bia rồi vừa nhai lạc rang vừa nói: “Tiết đại hàn ăn sủi cảo nóng là nhất, ông cứ thử xem.”

Cố Khinh Chu vốn không mấy nhiệt tình với bất kì ai ngoại trừ Giang Nhứ, lúc này chỉ có thể kiếm chuyện làm quà: “Nghe Giang Nhứ nói cậu mở tiệm sửa xe phải không?”

Đại Hoành đáp: “Kiếm ăn qua ngày thôi. Tiệm tôi ở ngay gần bến xe, quanh đây kinh doanh tốt, nhà cửa cải tạo xong là đầu xuân sang năm bắt đầu có doanh thu rồi. À, bây giờ ông làm công việc gì, hẳn là sếp lớn rồi nhỉ?”

Cố Khinh Chu chẳng biết nên trả lời ra sao: “Lớn gì đâu, cũng chỉ ngồi văn phòng thôi.”

Tốc độ ăn của Đại Hoành rất nhanh, ba lạng rưỡi sủi cảo trong nháy mắt đã vơi sạch phân nửa. Gã nói: “Ngồi văn phòng? Ngồi văn phòng cũng tốt, nắng không đến mặt mưa không đến đầu. Giang Nhứ bây giờ cũng ngồi văn phòng, dù chỉ là nhân viên nhỏ thôi. Nghĩ lại may mà hồi trước nó chịu đi học lại, nếu không chắc giờ này thành xã hội đen rồi.”

Tuy tuổi tác gã ngang ngửa Cố Khinh Chu song dáng vẻ lại như một người ba mươi tuổi, ánh mắt chất chứa tang thương, rất khó tìm được liên hệ với hình ảnh tên du côn đầu tóc vàng khè trước kia. Tu hết cốc bia, Đại Hoành thong thả hỏi: “Hai người bây giờ… vẫn bên nhau chứ?”

Cố Khinh Chu định nói đã từng chia tay bốn năm năm rồi quay lại, song rốt cuộc vẫn không quen chia sẻ với người khác, bèn trả lời ngắn gọn: “Từng chia tay một thời gian, mấy tháng trước quay lại.”

Đại Hoành còn độc thân nên không hiểu rõ lắm về quan hệ tình cảm, nhưng hồi đi học gã từng chứng kiến tận mắt Cố Khinh Chu quý trọng Giang Nhứ đến mức nào: “Quay lại với nhau cũng là cái số. Cho dù Giang Nhứ lấy vợ thật đi nữa, tôi cũng không nghĩ nó tìm được ai đối tốt với nó hơn ông. Hai người các ông vẫn là hợp nhau nhất.”

Cố Khinh Chu biết gã đang nói đùa, ngẫu nhiên hỏi: “Vậy nếu sau này cậu ấy lấy vợ, vợ cậu ấy còn đối tốt với cậu ấy hơn cả tôi thì cậu có nghĩ họ mới thật sự hợp nhau không?”

Đại Hoành ngẫm nghĩ giây lát rồi nghiêm túc lắc đầu: “Như thế chưa đủ, Giang Nhứ cũng phải sẵn sàng đối tốt lại với người ta mới được. Hồi xưa tuy thằng đó chơi đùa ông suốt, nhưng đối với ông thực ra không tệ, nếu không đã chẳng đánh nhau đến phải bỏ học.”

Cố Khinh Chu nghe vậy thoáng sững sờ, vô thức đưa mắt nhìn Đại Hoành, thấy gã đang hùng hục ăn sủi cảo thì siết chặt đôi đũa, sau đó lại thả lỏng tay, giả bộ tự nhiên nói: “… Phải nhỉ? Có điều tôi cảm thấy cậu ta đâu bắt buộc phải can dự vào vụ đó.”

Không ai hay biết nguyên nhân Giang Nhứ thôi học năm ấy ngoài thầy giáo, chỉ láng máng nghe nói rằng hắn choảng nhau với đám du thủ du thực ngoài trường, làm con nhà người ta nhập viện.

Đại Hoành vốn ruột để ngoài da, nghe vậy gác đũa phản bác: “Nghe ông nói kìa, không tẩn nó thì còn cách nào nữa đâu? Cái thằng chó đẻ ở trường thể thao bên cạnh đó, nó tên gì ấy nhỉ? À, Trương Đạt Long! Nó phát hiện hai người bọn ông dính với nhau sau giờ học, dọa mách lên nhà trường bọn ông chơi gay. Cái ngữ ấy đéo xử là đéo xong! Thằng Giang Nhứ mà không chặn đường đập cho nó một trận tởn đời thì bọn ông làm sao đi học tiếp được nữa?”

Vừa dứt lời, gã lại sực nhớ bản thân Giang Nhứ đâu có được đi học tiếp, bèn câm nín đưa tay gãi chóp mũi.

Trương Đạt Long…

Cố Khinh Chu ngồi bất động, nhanh chóng tìm ra kẻ mang cái tên này trong trí nhớ. Thông tin thu được ít ỏi đến đáng thương, y chỉ biết Trương Đạt Long là thằng từng bị mình đánh một trận vì đòi tiền bảo kê, sau đó lại bị Giang Nhứ cùng mình phối hợp nện nhừ tử ngoài hành lang lớp học. Đồng thời nó cũng chính là hàng xóm sát vách, vào giờ đi học thi thoảng chạm mặt y.

Cố Khinh Chu không rõ đối phương phát hiện ra mình và Giang Nhứ bằng cách nào – có lẽ là khi y kiên nhẫn đứng chờ Giang Nhứ trên đường mỗi buổi tan học, có lẽ là thời điểm y ngày ngày lẽo đẽo theo sau Giang Nhứ, mà cũng có thể là đêm mưa dầm sau giờ tự học hôm nào, khi y đẩy Giang Nhứ vào góc tường trong ngõ rồi hôn hắn.

Hàng xóm sát vách, lại thường lai vãng quanh khu vực đó, nếu muốn phát hiện bọn y kể ra rất dễ dàng. Dù sao thời điểm ấy hai người cũng gắn bó với nhau như hình với bóng.

Cố Khinh Chu xưa nay chẳng hề biết Giang Nhứ bỏ học là bởi chuyện này, mà Giang Nhứ cho tới bây giờ cũng chưa từng hé răng.

Biết đâu Giang Nhứ không phải là không thể chịu đựng cảnh nghèo khó…

Chỉ có điều vào thời khắc bước chân khỏi cổng trường đi vào xã hội, vào thời khắc bắt đầu phải làm việc nuôi sống gia đình, hắn mới bất chợt ý thức được hai người đàn ông bên nhau sẽ khó khăn đến nhường nào, mới bất chợt nhận ra cuộc đời có ý nghĩa ra sao.

Và cũng chính vào lúc đó Giang Nhứ mới thấu tỏ, bốn chữ “đồng tính luyến ái” kia so với nghèo đói còn nghiệt ngã hơn bội phần.

Trong đầu Cố Khinh Chu có vô vàn ý nghĩ, nhưng lại chẳng thể thốt lên thành lời.

Sủi cảo trên bàn đã hết nhẵn từ lúc nào không hay, Đại Hoành nhớ ra hình như Cố Khinh Chu chưa hề đụng đũa thì hơi ngượng, đang chuẩn bị gọi thêm một đĩa thì bị y chặn lại.

“Không sao đâu.”

Cuối cùng Cố Khinh Chu cũng tỉnh táo lại: “Tôi không đói lắm đâu.”

Nói đoạn, y đứng dậy đi thanh toán. Đại Hoành vươn tay định ngăn cản nhưng chân cẳng chậm chạp nên không đuổi kịp, vội kêu lên: “Này, như thế coi sao được? Tôi đã bảo tôi mời mà!”

Điện thoại Cố Khinh Chu rung lên, là tin nhắn của Giang Nhứ. Y mở ra đọc một lượt rồi bảo với Đại Hoành: “Không sao, Giang Nhứ đến nơi rồi, lần sau cậu đãi tôi là được.”

Dứt lời y đẩy cửa kính bước ra ngoài, bóng lưng gầy gò dưới ánh đèn đường mang theo chút gì đó hư ảo, vô thực. Bình thường Cố Khinh Chu đi đứng luôn vững vàng, song Đại Hoành nhìn từ phía sau chỉ thấy bước chân y vô cùng gian nan, như thể chỉ một giây nữa thôi sẽ ngã nhào xuống đất.

Trong điện thoại Giang Nhứ bảo rằng sẽ đi bộ, nhưng thực ra hắn phóng xe máy tới, dừng cách bến xe chỉ vài bước chân. Cố Khinh Chu vừa bước ra đã trông thấy đối phương, y đứng lặng tại chỗ mấy giây rồi mới tiến lại gần.

Giang Nhứ cầm mũ bảo hiểm trong tay, tuyết rơi trên mũ đã tan thành nước, ánh lên loang loáng dưới ánh sáng đèn đường. Nhìn thấy Cố Khinh Chu, hắn vui mừng kêu to: “Giỏi lắm, không bị lạc đường! Cậu lên xe đi.”

Nói xong, hắn lập tức ném qua một chiếc mũ bảo hiểm. Cố Khinh Chu vô thức bắt được, rồi chẳng biết nhớ tới điều gì mà chạy ngược về phía xe mình, ôm bốn, năm hộp quà khỏi băng ghế sau đưa cho Giang Nhứ, kế đến mới ngồi lên yên sau xe máy.

Giang Nhứ ghé mắt nhìn, sau đó treo lên tay lái: “Gì đây? Tổ yến hử?”

Hắn không thấy mặt Cố Khinh Chu, chỉ nghe y ‘ừ’ một tiếng sau lưng mình: “Quà gặp mặt cho bác gái.”

Giang Nhứ lẩm bẩm: “Đúng là đồ ngốc lắm tiền.”

Mặt đường có tuyết đọng, xe máy lại không thể che chắn người như xe hơi, Giang Nhứ phải đi rất chậm để đảm bảo an toàn. Hắn cảm thấy Cố Khinh Chu hôm nay có vẻ gì đó hơi là lạ, gặp mình cũng không quấn quýt dính người như thường ngày, không kìm được buột miệng hỏi: “Cậu sao thế?”

Hắn hỏi một đằng, Cố Khinh Chu trả lời một nẻo: “Lúc nãy tôi gặp Đại Hoành rồi đi ăn cơm với cậu ta.”

Giang Nhứ đáp: “Biết, cậu nhắn tin bảo tôi mà.”

Cố Khinh Chu hết lưỡng lự rồi lại ngập ngừng, sau hồi lâu rốt cuộc vẫn không nhịn được, hỏi ra miệng: “Hồi ấy cậu bỏ học là vì Trương Đạt Long phát hiện ra bọn mình phải không?…”

Tiếng gầm của xe máy quá lớn, mãi sau Giang Nhứ mới hiểu Cố Khinh Chu đang muốn hỏi gì. Hắn kéo mũ bảo hiểm lên, thản nhiên nói: “Hình như là thế, tôi cũng chẳng nhớ nữa, cậu hỏi làm gì?”

Tuyết rơi phủ xuống bờ vai, thấm ra hơi lạnh yếu ớt. Cố Khinh Chu đột nhiên rất để tâm, còn để tâm tới chuyện này hơn chính bản thân Giang Nhứ. Y lặng lẽ mấp máy môi: “Là tại tôi hại cậu…”

“Liên quan gì đến cậu?”

Giọng điệu Giang Nhứ vẫn hời hợt như thường: “Tôi không đánh nhau với nó cũng sẽ đánh nhau với đứa khác thôi. Hơn nữa kết quả ở trường của tôi bết bát sẵn rồi, học thêm nữa cũng ích lợi gì đâu? Thôi học nào phải cái gì to tát, trường bọn mình còn thiếu người bỏ dở giữa chừng chắc?”

Hắn chẳng hề để tâm, cảm thấy đây chỉ là chuyện nhỏ nhặt, chẳng đáng để hồi tưởng lại.

Cố Khinh Chu không tin, thấp giọng hỏi hắn: “Vậy tại sao cậu lại đi học lại?”

Giang Nhứ hãm tay lái, trầm mặc như đang suy ngẫm điều gì, một lát sau mới lên tiếng: “Thì… chỉ là cảm thấy con người ta sống phải có mục đích… Tôi đâu thể suốt đời làm lưu manh được.”

Giang Nhứ trải qua nửa đời người trong nỗi mông lung mơ hồ, chưa bao giờ nghĩ tới tương lai trước mắt sẽ ra sao. Thế nhưng hắn biết mình không thể cứ mãi ngập ngụa trong vũng bùn, để rồi biến thành một tên xã hội đen vô công rồi nghề, kết cục bị kẻ khác đánh gãy chân như Đại Hoành.

Đó không phải là cuộc sống mà hắn mong muốn.

Chẳng rõ từ bao giờ Cố Khinh Chu đã gỡ mũ bảo hiểm, những bông tuyết rơi tới tấp xuống mặt, gặp nhiệt độ da thịt thì tan biến thành vệt nước. Y bất giác siết chặt mép áo Giang Nhứ rồi thấp giọng hỏi, thanh âm nghe rõ ràng hơn hẳn lúc nãy: “… Vì sao hồi ấy cậu không kể cho tôi biết?”

Cố Khinh Chu từng dùng cả trái tim đối đãi chân thành với Giang Nhứ mà chẳng được đền đáp, chỉ còn một cõi lòng day dứt không yên. Vậy nhưng hóa ra khi tất cả sắp kết thúc, Giang Nhứ lại đứng ra bảo vệ y.

Giang Nhứ ngẫm nghĩ một lát, đoạn trả lời: “Chẳng nhớ nữa, tôi quên luôn rồi.”

Hoặc cũng có thể là khi đó hắn cảm thấy hai người sau này sẽ không còn dính dáng, bởi vậy không cần thiết phải liên lụy đến y – đến thành tích cũng như cuộc đời y.

Giang Nhứ học lại một năm rồi thi đại học. Hắn vào năm nhất, Cố Khinh Chu đã lên năm hai; hắn lên năm hai, Cố Khinh Chu đã trở thành sinh viên năm ba. Rõ ràng chỉ cách một năm thôi, vậy mà Giang Nhứ dường như không sao đuổi kịp, tựa khoảng cách từ thành phố A đến Hải Thành xa đằng đẵng hơn hai ngàn cây số.

Có lẽ là bởi gió lớn, Cố Khinh Chu bỗng vô thức cúi xuống, tựa đầu vào lưng Giang Nhứ. Y im lặng mặc cho gió tuyết liên hồi tạt vào cổ áo, một lát sau mới bất chợt lên tiếng: “Nếu như sau này cậu không thích tôi nữa thì nhất định phải nói cho tôi biết đấy…”

Giang Nhứ nghe xong nhướng mày kinh ngạc: “Nói cho cậu rồi thì sao?”

Khóe miệng Cố Khinh Chu khẽ giật: “Biết đâu tôi sẽ buông tha cho cậu…”

Thứ tình yêu Cố Khinh Chu học được trước kia là chiếm hữu, nếu đã thích, tuyệt đối phải nắm chặt trong tay. Thế nhưng bây giờ y bỗng nhiên cảm thấy ý nguyện của Giang Nhứ mới quan trọng hơn hết.

Y chưa dứt lời, chiếc xe máy bỗng dừng phắt lại. Giang Nhứ trụ một chân xuống đất giữ thăng bằng, thình lình quay đầu hỏi: “Cậu điên rồi hả?”

Cố Khinh Chu không đội mũ bảo hiểm, tuyết đọng trên hai hàng mi dày rợp nhanh chóng tan thành nước. Chóp mũi y đỏ ửng, hai gò má lạnh buốt vẫn còn loang vệt ướt.

Thấy y như thế, Giang Nhứ chẳng tài nào thốt ra nổi những lời sắp ra đến miệng. Hắn nói giọng khô khốc: “Tiên sư nhà nó, cậu cưa ông đây xong xuôi cả rồi, giờ gạo đã nấu thành cơm lại thở ra mấy câu này là sao? Sao có thể còn cặn bã hơn cả tôi vậy hả?”

Cuống họng Cố Khinh Chu nghẹn đắng, hàng mi vô thức run rẩy, những giọt nước đọng li ti trên đó lóe sáng lấp lánh.

Giang Nhứ tức tối: “Cậu có chắc rằng đến khi tôi không còn thích cậu, cậu có thể thoải mái vui vẻ mà buông tay không?”

Cố Khinh Chu rất mực vô cùng không chắc chắn: “…”

-Hết chương 40-

.