Nhận ra tiểu hòa thượng tiếp cận mình, Trần Bạch Hoàng lộ ra chút cẩn trọng, đối phương dù sao cũng là người xa lạ, không nên quá thân cận.
Tiểu hòa thượng Tuệ An ánh mắt chân thành, chìa ra trong tay một nắm cơm, nhẹ giọng nói:
" Vị thí chủ này có vẻ chưa ăn gì? Hãy ăn tạm một ít cơm này cho ấm dạ."
Trần Bạch Hoàng cũng không có sĩ diện, lau sạch tay ướt, sau đó nhận lấy nắm cơm của tiểu hòa thượng, miệng lí nhí: " Đa tạ tiểu sư phụ."
Chưa để Trần Bạch Hoàng thu lại tay, Tuệ An hòa thượng lại lôi ra một thân y phục của sư sãi thường dùng, tiếp tục nói:
" Y phục của thí chủ cũng đã ướt hết! Mau thay bộ này kẻo lạnh.

Đây là sư phụ ta đích thân vét túi nghèo của người mua cho ta, thế nhưng ta cũng chưa cần dùng đến, thí chủ người cần hơn liền nhận lấy, đừng ngại."
Thoạt nhìn, gương mặt láu cá của chú tiểu dễ khiến người khác khó lòng mà tin tưởng thực hư, thế nhưng giờ phút này ánh mắt đầy sự đồng cảm của y khiến Trần Bạch Hoàng không khỏi trách tâm quá đỗi đa nghi.

Thiếu niên trong lòng sinh ra một cỗ ấm áp, thì ra tiểu hòa thượng cũng không giống dáng vẻ trong ấm ngoài lạnh như sư phụ y.

Không rườm rà miệng lưỡi, Trần Bạch Hoàng lần nữa đưa tay nhận lấy bộ y phục màu xám tro kia, lần nữa lên tiếng cảm ơn:
" Đa tạ."
Trần Bạch Hoàng không muốn quá nhiều lời, cũng không muốn quá thân cận người lạ, vì vậy cũng không có nói nhiều thêm từ gì.

Theo suy nghĩ của thiếu niên, ơn nghĩa của sư đồ hai vị hòa thượng này sau này hắn chắc chắn sẽ trả đủ, nhiều lời nói miệng sáo rỗng chi bằng giữ lại trong lòng thì hơn, hơn nữa sư đồ Phổ Đức hòa thượng cũng là người xuất gia, nào có để ý đến chút lễ lạt phiền phức này.
Thế nhưng thấy bầu không khí có chút ngượng ngùng, Trần Bạch Hoàng nghĩ mãi mới cất lời tiếp:
" Dám hỏi tính danh của tiểu sư phụ cùng lệnh sư?"
Chú tiểu Tuệ An làm bộ mặt cười, một tay vỗ cái đầu trọc lốc, có chút nghịch ngợm nói:
" Ai da! Ta quên béng mất.


Giới thiệu với thí chủ, pháp danh của ta là Tuệ An, Tuệ trong đại trí tuệ, An trong đại bình an.

Ha ha ha, sư phụ của ta đặt tên có chút khoa trương, thí chủ đừng cười chê."
" Còn sư phụ ta! Lúc nãy người cũng nói rồi, người là Phổ Đức, trụ trì của Long Môn Tự ở Tốn Xứ."
" Lúc nãy thấy sư phụ ra ngoài, không nghĩ tới người lại mang thí chủ về đây, cái này rõ ràng là chúng ta có duyên, ha ha ha."
Bộ dáng cười lớn của Tuệ An khiến Trần Bạch Hoàng có chút không quen.

Thiếu niên hết nhìn về phía vị Phổ Đức hòa thượng đang yên lặng tọa thiền kia rồi lại nhìn đến bộ dạng của chú tiểu Tuệ An, không khỏi lắc đầu thầm nghĩ thế gian sao lại có cặp sư đồ trái tính trái nết đến như vậy…
Ở một bên, nhìn thấy một màn này, một tên bộ hạ của Hạ Quang Nghĩa ở một bên không khỏi cười dài cảm khái:
" Phổ Đức Thánh Tăng có vẻ lần này đã thu được một đệ tử không tệ, vãn bối vẫn là mừng cho người.

Chỉ một nắm cơm liền rõ tâm trong trí sáng, hi vọng vị tiểu hòa thượng sau này sẽ trở thành một bậc đại thiện giả, sẽ không có giống như hai vị sư huynh của y."
Nghe thấy lời này, Hạ Quang Nghĩa không khỏi nhíu mày, trong lòng sinh ra cảm giác khó chịu, tuy vậy y cũng không vội chữa lời.

Lời kia nếu đơn giản chỉ là khen ngợi tán thưởng thì cũng chẳng có chuyện gì, thế nhưng câu từ cuối rõ ràng mang ý vị thâm tường sâu xa, đụng chạm tới việc nhạy cảm của Phổ Đức hòa thượng.

Tuy nói người phật môn không quá câu nệ lời ăn tiếng nói của người thiên hạ, thế nhưng lòng người vốn thâm sâu khó dò, người tu phật nhưng tâm chưa chắc đã tu phật, ai biết được đối phương liệu có để bụng hay không.

Hơn nữa, Phổ Đức hòa thượng danh tiếng cũng không phải là quá tốt đẹp gì, chả may giữa đường lão hòa thượng nổi cơn tam bành, động tay động chân thì có mà khốn, võ công của vị Thánh Tăng kia cũng không phải một đám người cậy đông mà có thể đánh lại đấy.
Lúc này, Hạ Quang Nghĩa chưa có lên tiếng phản bác ngay một phần cũng vì thân phận của kẻ kia có chút đặc thù, việc này nếu làm không khéo có thể khiến đối phương phật lòng, sinh ra ý khác, dễ gây ảnh hưởng đến tâm lý của những kẻ xung quanh.

Về lý sâu xa, Thần Quyền Bang vốn đang trong giai đoạn thu hút nhân tài vật lực, vì vậy cần tránh những mâu thuẫn nội bộ không đáng có.


Hơn nữa, kẻ vừa thốt lên lời kia tên Vương Hội, là một cao thủ có tiếng mới gia nhập môn phái, lại mang theo bên mình một lượng lớn nhân sĩ tán tu đầu phục theo nên Hạ Quang Nghĩa luôn thận trọng đối đãi, không có nửa điểm qua loa dù người đã về dưới trướng mình.

Thời khắc này, Phổ Đức hòa thượng chưa có vội trả lời, thế nhưng chú tiểu Tuệ An vốn nhỏ tuổi còn mang lòng hiếu kỳ, liền tò mò vặn hỏi:
" Vị thí chủ này nói thế là sao? Tại sao lại không hi vọng ta giống như hai vị sư huynh kia của ta?"
Nghe thấy câu hỏi ngô ngê của tiểu hòa thượng, mấy người Vương Hội hai mắt nhìn nhau khó hiểu.

Được một khắc, dường như nhìn ra vấn đề, Vương Hội mới cười nói:
" Thì ra chú tiểu này còn chưa được sư phụ mình kể về mấy vị sư huynh của ngươi a! Phổ Đức Thánh Tăng vẫn là người kín miệng a.

Chả nhẽ người sợ vị tiểu hòa thượng này đi theo vết xe đổ của hai tên kia."
Phổ Đức hòa thượng lúc này mới thở dài một hơi, hai mắt y vẫn nhắm nghiền, chỉ nhẹ thả giọng nói:
" A Di Đa Phật! Chuyện xấu chẳng dám nói ra, chỉ dám lấy đó làm gương lần nữa giáo hóa hiền đồ.

Hổ thẹn thay, hổ thẹn thay."
Vương Hội vẫn chưa có cười cợt thỏa mãn, lại tiếp:
" Thánh Tăng việc gì phải tự trách! Thiên hạ hôm nay ai chẳng biết người dạy dỗ ra hai đại hung đồ quấy phá phong vân một cõi, một kẻ là dâm tăng hái hoa tặc, một tên là ác tăng hiếu sát.

Chưa nói đến đạo đức, thế nhưng là một thân công phu người dạy chúng cũng là tuyệt phú, đủ để võ lâm giang hồ bái phục rồi a."
" A Di Đà Phật! Để thí chủ chê cười, đây là tội nghiệt của bần tăng, là tội nghiệt a." – Phổ Đức hòa thượng tiếp tục lắc đầu thở dài, sắc mặt vô cùng ảm đạm cùng sầu khổ, thì ra phật đồ cũng không phải là không có cảm xúc.
Cảm thấy Vương Hội càng ngày càng quá trớn, Hạ Quang Nghĩa lần này mới cười nhạt, thế nhưng lời nói lại không có ý cười:
" Phổ Đức Thánh Tăng hẳn là có nỗi khổ trong lòng, Vương huynh hãy là dừng lại ở đây thì hơn."
Vương Hội vậy mà không có thụ lời khuyên của họ Hạ, lập tức phản bác:

" Nhị đương gia hiểu lầm ý Vương mỗ rồi! Vương mỗ chỉ là tán thưởng tài năng dạy dỗ của Phổ Đức Thánh Tăng mà thôi.

Ha ha ha."
Tiếng cười của Vương Hôi mang theo bảy phần suy nghĩ méo mó vang lên, khiến cho lũ lâu la hợp ý hắn cũng cười theo.

Nhìn thấy cảnh này, Hạ Quang Nghĩa không khỏi trầm xuống ánh mắt, Vương Hội này quả là gan to bằng trời, thật coi hòa thượng kia là kẻ ăn chay liền không biết giận hay sao.
Nghĩ đến đại sự trước mắt, nhị đương gia Thần Quyền Bang lập tức hướng Phổ Đức hòa thượng tỏ lời xin lỗi:
" Thánh Tăng chớ để ý Vương huynh nói lời khó nghe! Hắn chỉ là say rượu nên không giữ được mồm mép, mong Thánh Tăng chớ hiểu lầm."
" A Di Đà Phật! Hạ thí chủ không cần lo lắng.

Lời thật khó nghe, Vương thí chủ đây là cảnh tỉnh bần tăng không nên phạm phải sai lầm lần thứ ba.

Bần tăng vẫn là cảm tạ Vương thí chủ thì hơn." – Phổ Đức hòa thượng chắp tay trước ngực, nhã nhặn nói.
Phổ Đức hòa thượng nói lời như vậy khiến Hạ Quang Nghĩa chỉ biết lắc đầu thở dài, có lẽ phật tâm một đời vất vả tu hành của vị lão hòa thượng này đã bị những tên đồ đệ đáng chết kia để lại những vết xước khó có thể xóa nhòa, tâm tư từ đó không còn uy nghiêm cửa phật nữa rồi.

" Thương thay một kiếp làm thầy, dạy trò hướng phật chẳng ngờ thành ma."
Là một kẻ hậu bối, về một mặt nào đó thì Hạ Quang Nghĩa luôn coi Phổ Đức hòa thượng là một vị tiền bối đáng kính trọng, một trong những lão tiền bối đáng giá để hắn học theo cả đời.

Tuy trong lòng có chút đề phòng tính khí thất thường của người xuất gia, thế nhưng nhìn thấy khổ hải cả đời của lão hòa thượng, họ Hạ chỉ biết đau thương hộ người mà chẳng dám nói nên lời, dù sao Phổ Đức cũng là một vị hòa thượng tâm phật đã sớm thoát khỏi hồng trần, không phải người tại nhân gian như y...
Phổ Đức hòa thượng xuất sinh từ Long Môn Tự, một ngôi chùa nhỏ tại núi Long Môn, Tốn Xứ.

Thuở nhỏ y là con một người tiều phu chuyên gánh củi bán cho chùa, sau này vì phụ mẫu đoản mệnh, lại có duyên bái trụ trì Long Môn Tự làm sư, từ đó về sau một đời sống tại cửa phật.

Tại quá khứ, đối với nhiều người, Phổ Đức hòa thượng là một hòa thượng đáng kính, người có thể bỏ xuống hư vinh cùng đại lễ của giáo đồ, tự thân tha phương khắp nơi ban thiện giảng kinh, giúp đỡ người khốn khổ, vì vậy nhân gian thường tôn sư thầy là Phổ Đức Thánh Tăng, là thánh trong cõi tăng.
Những tưởng một đời phật tâm hoàn hảo vô khuyết, thế nhưng thương thiên cũng quá trêu ngươi người tu hành, khiến cho một đời người mãi lang thang tại khổ hải.

Phổ Đức Thánh Tăng cả đời có ba đồ đệ, ngoài Tuệ An tuổi nhỏ nơi đây còn có hai vị đồ đệ khác, một tên Tuệ Tâm, một tên Tuệ Thiện, thế nhưng oái oăm ở chỗ cả hai tên đồ đệ kia đều là những tên hung đồ, một kẻ là dâm tăng chuyên bắt cóc cùng gian dâm với con gái nhà lành, một kẻ là ác tăng hiếu sát, chỉ vì thích khoa trương vũ lực của bản thân mà không ghê tay hạ sát người vô tội.


Cả đời việc thiện chẳng ai biết, lỡ giáo ác đồ vạn người hay.

Chỉ vì dạy dỗ ra hai đại hung đồ mà Phổ Đức Thánh Tăng bị không ít lời giang hồ cười chê, đa phần đều dùng những từ ngữ cay độc nhất ném về phía vị trụ trì già.

Cửa phật thanh tịnh, dẫu rằng những lời kia cũng chỉ dừng lại dưới chân núi Long Môn, thế nhưng là một người thầy, Phổ Đức hòa thượng làm sao có thể không biết những chuyện kia.

Vì muốn thu lại tội nghiệt do chính mình gây ra, vị thánh tăng già bỏ lại ngôi cổ tự sau lưng, dắt theo quan môn đệ tử Tuệ An tuổi còn nhỏ đi khắp nơi tìm kiếm hai tên ác đồ kia để lần nữa giáo hóa chúng.

Dẫu tâm hoài mong nhưng sự chẳng thành, dù đã lang thang Cửu Địa nhiều năm, lần theo từng ngóc ngách tìm kiếm hành tung của hai kẻ kia thế nhưng Phổ Đức hòa thượng vẫn như cũ vô lực tìm lại chúng.

Có lẽ ở một nơi khác, hai tên ác đồ cũng không ngừng chạy trốn chính ân sư của mình, có lẽ chúng sợ hãi phải đối mặt với người từng chăm lo cho chúng, từng cứu rỗi chúng khỏi đọa đày một thuở.
Thầy phật xuất trò ma, cả đời chính là sự dằn vặt của người làm thầy.
Đại đệ tử Tuệ Tâm còn tốt, y chỉ là dâm tăng hái hoa ghẹo nguyệt, không có cùng người đời so đo những lời khó nghe kia, thế nhưng Tuệ Thiện hòa thượng lại là một tôn ma đầu tính khí cực kém, sẵn sàng vác lên đồ đao chém tận giết tuyệt bất cứ kẻ nào nói lời nhục mạ trước mặt hắn.

Những chuyện thương thiên hại lý mà hai kẻ kia làm ra nhiều thêm một ngày, Phổ Đức Thánh Tăng đều coi là tội nghiệt của lão lại tăng thêm một đời, mỗi lần như thế thật chẳng biết lão hòa thượng phải vào luân hồi bao nhiêu lần mới có thể trả hết tội nghiệt này.

Nhìn thấy sư phụ mình cả người trầm lặng, tiểu hòa thượng Tuệ An tỏ ra vô cùng khó hiểu, hắn không rõ lý do vì sao sư phụ hắn lại bày ra biểu tình như vậy.
Lại nói về xuất sinh của Tuệ An hòa thượng, y vốn là cô nhi, con của một vị tá điền yểu mệnh sống gần Long Môn Tự.

Sau này chỉ vì một nắm cơm người nông dân kia đem dâng phật, Phổ Đức Thánh Tăng đích thân hạ sơn nhận hắn vào chùa, cứu hắn khỏi kiếp tá điền lầm than.

Phổ Đức Thánh Tăng dạy dỗ Tuệ An rất cẩn thận, lão hòa thượng không muốn đệ tử cuối cùng của mình sẽ lại trở thành một ác tăng như hai tên kia.
Dưới sự dạy dỗ của ân sư, Tuệ An cứ thế lớn lên, thế nhưng dù gắn bó như hình với bóng với lão hòa thượng song hắn chưa bao giờ được nghe kể rằng mình có hai vị sư huynh, vì vậy cuộc trò chuyện ngắn gọn giữa những kẻ giang hồ kia khiến chú tiểu rất tò mò.
Sự hiếu kỷ của trẻ con khiến Tuệ An mấy lần muốn lên tiếng hỏi thăm sư phụ mình, thế nhưng nhìn lại xung quanh đông đúc lại thêm phần không muốn để lão hòa thượng thêm khó xử, tiểu hòa thượng lại mím môi im lặng, hóa ra cuộc sống cũng có lúc khó nói chuyện đến như vậy..