Suy nghĩ một hồi, Đông Cung chợt nhớ ra lúc trước mình từng xem qua một đoạn văn tự cổ liên quan đến chuyện truyền thuyết hỏa phượng này.

Trong đó, hình như có phân đoạn nhắc đến chiến tranh giữa yêu và người một ngàn năm trước.
*[Trích đoạn] “Yêu ma được thế lộng hành khắp nơi, bá tánh lầm than, nhân dân đau khổ, tiếng khóc than nghe ai oán thấu tận trời cao.

Triều đình đương thời tập hợp số dân còn lại lập đàn cúng tế, cầu mong thiên kiếp chóng qua, cuộc sống thái bình như xưa.

Lòng thành đã chạm đến Vương Mẫu, rủ lòng thương xót, người mới phái sứ giả xuống trao hai món thần vật giúp con người gia tăng thêm sức mạnh.

Đầu tiên, là thanh Thần Kiếm ảnh quang ngời ngời, chém đá như chém bùn, xung quanh tỏa ra luồng kiếm khí mạnh mẽ áp chế được sức thể âm tà.

Món thứ hai nghe nói là quyển bí phổ, đặt trong chiếc hộp bề ngoài thô sơ đơn giản, bên trong giấy trắng trơn tru chẳng có gì.

Mở hộp ra, ánh kim quang bay vụt lên không trung, kèm theo dòng chữ: Số phận an bày, người mang chí lớn, đọc ắt sẽ rõ…”*
Đoạn phía sau đã bị ai đó xé mất, nhưng qua cách thuật lại chiếc hộp chứa quyển bí phổ đó khá giống với hộp gỗ được đặt trên bệ thờ trong Linh Lung Bảo Tháp.

Phải chăng đó chính là bảo vật trong truyền thuyết? Cẩn thận ghép lại từng dòng suy nghĩ từ nhiều dữ kiện khác nhau thành một câu hoàn chỉnh, Đông Cung cung kinh đáp lời:
- Bẩm hoàng thượng\, theo vi thần đoán\, có lẽ đây chính là chiếc hộp đựng bí phổ năm xưa Vương Mẫu ban cho loài người?
- Đúng đấy.

Khanh tài thật\, chỉ nhìn sơ qua thôi đã đoán được chính xác.

Không hổ danh là vị tướng trí dũng song toàn\, trẻ tuổi nhất trong triều.

- Thần không dám nhận.
Hoàng thượng lại tiếp tục:
- Lúc trước\, còn là hoàng tử\, trẫm thường hay đến bảo tháp này\, cũng tò mò muốn xem thử rốt cuộc bên trong là thứ gì\, nhưng khi mở ra\, chẳng có gì ngoài một quyển sách sờn cũ bị nhăn góc và viên đá cuội khắc vài dòng ký ngữ cổ.

Trẫm thật không hiểu\, vì sao thứ cũ nát như thế lại được đặt trong một tòa bảo tháp nguy nga\, còn được các đời vua truyền thừa tôn thờ cẩn trọng.

Mãi đến tận lúc đăng cơ\, trẫm mới rõ\, thì ra chỉ người nào mang thiên mệnh\, là truyền nhân của Triệu Vương năm xưa\, mới có khả năng xem được bí thuật.

Nay\, trẫm đưa khanh đến đây cũng vì tin chắc rằng khanh chính là người được giao cho sứ mệnh.

Mau tiến lên và mở nó ra đi.
Chuyện xảy ra có vẻ khá đột ngột, Đông Cung cũng không ngờ rằng hoàng thượng lại nghĩ rằng chàng chính là người được tiên đoán.

Thật ra trong tình thế này, điều cần thiết nhất là tìm được quyển bí phổ và thanh Thần Kiếm mới có cơ may nắm chắc phần thắng trong tay, nhưng nếu chàng không phải người được trao sứ mệnh, thì cho dù lần này dẫn binh có cố gắng cách mấy phần thắng cũng nghiêng về phe đối diện.

Còn nếu chàng là người đó, thì càng nguy hơn, có thể sau trận chiến, lại trở thành tâm điểm của dư luận bàn tán.
Nhận ra vẻ lưỡng lự phân vân của Đông Cung, hoàng thượng lại mở lời thúc giục:
- Khanh cứ thử xem.

Đừng lo lắng quá\, phải cũng được\, mà không phải cũng không sao.

Trẫm chỉ muốn xem\, liệu lần này ông trời sẽ hậu thuẫn bên nào thôi.
- Vi thần đã hiểu.
Miễn cưỡng bước gần đến cạnh chiếc hộp gỗ thô sơ, Đông Cung khẽ đưa tay mở nắp hộp.


Thoạt đầu, chẳng có gì xảy ra, quả thật bên trong chỉ có quyển sách bạc màu và viên đá cuội khắc chữ.

Thấy thế, hoàng thượng trong lòng có vẻ thất vọng.

Nhưng chỉ một lát sau, phần gỗ chỗ bàn tay chàng chạm vào bỗng nhiên phát sáng, cứ như là đã phát hiện được những đường chỉ tay số mệnh.

Những tia sáng trắng từ chỗ ấy bắt đầu loang ra tứ phía, bọc lấy chiếc hộp dưới ánh mắt ngạc nhiên của hai người.
Mặc dù không có gió, nhưng những trang sách cứ liên hồi lật tứ tung, lật đến trang nào, đều có một chữ trôi nổi bay ra lên không trung.

Chẳng mấy chốc đã ghép thành bốn câu hoàn chỉnh:
“Thiên cơ phù mệnh
Phận định an bày
Tiếp nhận thánh nguyện
Thành bại tại thân.”
Dòng chữ vàng lơ lửng ẩn hiện trước mặt, cũng nhanh chóng mờ dần rồi biến mất hẳn.

Giây phút ánh kim quang cuối cùng tắt lịm, mặt đất dưới chân Đông Cung bắt đầu di chuyển dữ dội, quang cảnh xung quanh đùng một cái bỗng tối đen hẳn, không gian phía trước hiện một cung đường quanh co dẫn đến cánh cửa thiên môn rộng lớn.

Sự việc diễn ra quá nhanh làm chàng khá bàng hoàng, nhìn quanh không thấy thiên tử đâu, liền lớn tiếng gọi to:
- Hoàng thượng! Người đâu rồi? Người có sao không?
Đáp lại lời của chàng là một quãng dài yên lặng mênh mông, cảm giác có phần hơi kỳ lạ, chàng bắt đầu nảy lên một suy nghĩ: “Chẳng lẽ đây chính là cảnh giới trong bí phổ? Nhưng sao lại tối om thế này? Còn cánh cửa trước mặt sẽ dẫn đến nơi nào?” Đắn đo một hồi lâu, chẳng còn lựa chọn nào khác, Đông Cung đành quyết định đi dọc theo cung đường đó.
Đưa tay ra chạm nhẹ vào cửa thiên môn, chưa dùng lực mà một bên đã hé mở, ánh sáng trắng chói lòa bắt đầu chi chít len lỏi qua khoảng không trống rỗng đó, mở ra trước mắt một vùng thuần bạch sáng tựa như sa mạc tuyết.


Che tay trước mặt nhằm cản bớt ánh quang đó, Đông Cung thoáng nghe một giọng nói trầm thấp vang lên từ tốn:
- Ta đã chờ ngươi ở đây lâu lắm rồi.
Có phần ngạc nhiên hạ tay xuống, trước mặt chàng hiện ra bóng hình một nam tử tuấn tú, khoác trên người bộ giáp phục họa tiết theo lối cổ xưa, trên tay cầm một thanh kiếm sáng loáng phát ra nguồn thần khí vô hạn.

Trông điệu bộ toát lên vẻ oai phong lẫm liệt, chắc có lẽ là linh hồn trấn giữ nơi này.
- Ngươi là ai? - Đông Cung hỏi.
- Ta là ai không quan trọng.

Ngươi chỉ cần biết\, ta hiện hữu trước mắt ngươi chỉ là bóng hình hư ảnh\, thoáng chốc sẽ biến mất.
- Vậy tại sao ngươi lại bảo là chờ ta?
- Vì ngươi là chuyển thế của Triệu Lạc Thần.

- Vừa nói\, y vừa đưa thanh kiếm đang cầm trên tay cho Đông Cung - Thứ này vốn dĩ thuộc về ngươi\, hãy cầm lấy nó.
“Triệu Lạc Thần? Chuyển thế?” Đông Cung thầm nhắc lại cái tên ấy trong đầu.

“Chẳng lẽ trên thế gian này còn có chuyện thần kỳ như thế ư?” Tuy trong lòng có phần do dự, nhưng chàng vẫn đưa tay ra đón lấy thanh bảo kiếm ấy.

Quả đúng như lời nam nhân kia nói, kiếm trao qua tay, bóng hình y cũng mờ dần rồi mất hẳn, không gian xung quanh lại một lần nữa biến động.

Tứ phía vỡ tan, cảm giác rơi xuống quá đỗi chân thực, chốc lát đã đưa Đông Cung quay về với hiện tại.
Chợt cảm giác có ai đó đang lay lắc cơ thể mình, chàng bất giác mở mắt bừng tỉnh bước lùi về sau vài bước, lại nghe có tiếng người vang lên đầy lo lắng:
- Khanh có sao không? Sao đột nhiên lại ngây người đứng lặng như thế?
Hóa ra từ nãy đến giờ tay chàng vẫn đặt bất động trên chiếc hộp gỗ.

Hoàng thượng có vẻ sốt ruột nên mới hỏi han.
- Bệ hạ… lúc nảy\, người không rơi vào cảnh giới đó sao?
- Cảnh giới nào? Chẳng phải sau khi bốn câu kim ngữ đó biến mất\, chúng ta vẫn đứng tại đây sao?

Dường như những gì Đông Cung vừa trãi qua khi nảy chỉ hoàn toàn là bản thân tự nhìn thấy, cảm nhận, người xung quanh vẫn không hề hay biết gì.

Chuyện xảy ra có phần ly kỳ, chàng lại cảm giác trên tay mình đang nắm chắc vật gì đó.

Cúi đầu nhìn xuống, lại là thanh kiếm lúc nãy người vô danh kia trao cho.
- Thanh kiếm này… khanh từ đâu mà có? - Hoàng thưởng trỏ vào bảo kiếm\, tỏ vẻ kinh ngạc.
- Thần… thần cũng không rõ…
Tuy có phần khó hiểu, nhưng gương mặt của hoàng thượng lộ rõ nét vui mừng phấn khởi:
- Khanh quả nhiên là người được chọn!
__________________
Sau hôm ấy, khi về đến phủ, mọi chuyện thần kỳ liên tục xảy ra.

Hoàng thượng đồng ý trao hai chiếc hộp cổ đó cho Đông Cung mang về nghiên cứu lại kỹ lưỡng, nhưng với điều kiện phải hoàn trả lại sau khi cuộc chiến kết thúc.

Hóa ra quyển sách cũ kỹ ấy vốn là bí phổ được lưu truyền từ đời này sang đời khác, chỉ những người thực sự mới có thể xem được nội dung bên trong.

Viên đá cuội nhỏ kia cũng quyền lực vô cùng, thực chất đó chỉ là vẻ bề ngoài che đậy đi sức mạnh vô biên bên trong.

Dùng linh lực khởi động cơ quan của nó, lập tức sẽ hiện ra một không gian vô hạn rất thích hợp cho người tu luyện gia tăng thêm linh lực.
Chỉ trong vòng một thời gian ngắn, Đông Cung đã hoàn tất việc luyện tập thuật Phục Ma trong quyển bí phổ đó, lĩnh ngộ vô số điều kỳ diệu trong thế giới loài người mà vốn dĩ con người không hề biết đến.

Mặc dù vậy, việc tiến quân lãnh ấn soái vẫn không thể chậm trễ, chàng cẩn thận lên kế hoạch sẵn sàng cho lần viễn chinh này.

Gánh trên vai trọng trách lớn nặng, dẫu trong lòng hiểu rõ lần này trong số kẻ thù mình đối đầu, thế nào cũng có Dung Nhi, nhưng hôm nay đã lỡ thành ra nông nỗi này, thì chỉ còn cách thuận theo dòng chảy mà xuôi theo.

Có trách, chỉ trách ở số phận nghiệt ngã, đã cho chàng và muội ấy mang trên mình hai dòng vận mệnh khác nhau, lỡ yêu nhau cũng vô tình trở thành kẻ thù của nhau.