Hoàng đế đã quyết định ngày mùng một tháng Bảy sẽ về cung ở Ly đô nên hai mươi chín tháng Sáu là lần đi săn cuối cùng của năm nay.

Mới vừa mưa to, thời tiết Thượng Giang vô cùng mát mẻ hợp dễ chịu, hoàng đế dậy thật sớm, tinh thần phấn chấn mà mặc giáp.

Nghị phi Triệu thị, Hoà thục nghi Mộ thị, công chúa Cảnh Ưu đều mặc quân trang, tư thế hiên ngang đi tới cùng đám nội thần nữ vây quanh.

Hơn trăm nội thần ngăn cách giữa Thành Thân vương và thị vệ với nội quyến trong cung.

Kèn lệnh vừa vang lên, hoàng đế nhảy vào trước, Nghị phi và Hoà thục nghi cầm nỏ nhỏ trong tay theo sát phía sau.

Hoàng đế thạo cung ngựa, thấy sừng hươu chợt lộ ra trong cây rừng bèn phóng ngựa đuổi theo.

Hoà thục nghi cười, khẽ quát một tiếng rồi uốn lượn đi theo, thuật cưỡi ngựa không kém chút nào.

Hai mũi tên đầu của hoàng đế đều hụt, mũi tên thứ ba cắm giữa cổ hươu, lại bắn bồi mũi nữa, huơu đực ngửa đầu kêu thảm một tiếng rồi ngã xuống đất, không ngừng thở dốc.

Cát Tường nhảy xuống ngựa, rút dao găm từ hông, cắt cổ hươu lấy máu.

Hoàng đế cười quay người lại đã thấy Hoà thục nghi buông dây cương, hai tay che mắt không đành lòng nhìn.
“Không sao, đã tắt thở rồi”.

Hoàng đế quay về bên nàng cười nói.
Mộ Từ Tư vẫn che mắt, cứ lắc đầu mãi.

Hoàng đế gỡ hai tay nàng ra, thấy hai mắt nàng nhắm nghiền, khóe mắt mang theo ánh lệ thì dịu dàng nói: “Cá lớn nuốt cá bé chính là như vậy.

Hôm nay nàng không nhìn thì sau này sẽ luôn sợ hãi…”.
Tính cách nàng là vậy, nói không nhìn thì sẽ không nhìn, dù hoàng đế nói thế vẫn chỉ lắc đầu thưa: “Không, hôm nay thần thiếp mới biết đây vốn là chuyện mình không thích, xin hoàng thượng đừng ép”.

Chợt nghe hoàng đế hét lớn một tiếng: “Mở mắt ra”, làm giật mình, đành mở hai mắt ra.

Hương thơm thoang thoảng trước mặt, hoàng đế cầm một một bó hoa lan vừa cúi người hái, cười nói: “Cái này đẹp chứ?”.
Mộ Từ Tư nín khóc mà cười, nhận lấy rồi kẹp trên vạt áo lồng trong giáp: “Hoàng thượng thật giỏi dọa nạt người ta”.
Hoàng đế nhìn nàng mỉm cười.

Cát Tường bỗng qua đây, nhét mấy cành hoa lan vào trong tay hoàng đế rồi hướng về phía Nghị phi đang bĩu môi chậm rãi đi tới.

Hoàng đế ngầm hiểu, lên đón và tự mình cài lên tóc mai của Nghị phi.

Nghị phi được yêu chiều mà đâm lo sợ, run rẩy nói: “Tạ ơn hoàng thượng”.
Mộ Từ Tư vỗ tay cười rằng: “Đẹp quá, chị thẹn đến đỏ mặt rồi”.
“Nhóc con dám giễu cợt chị”.

Quả thực Nghị phi đã đỏ mặt, thúc ngựa qua đây lấy một nhành từ vạt áo Mộ Từ Tư rồi cài lên tóc cho nàng.
Cát Tường than thở: “Vạn tuế gia nhìn kìa, suy cho cùng là cách điệu Nghị phi nương nương tự tay cài hoa khác hẳn với đàn ông như hoàng thượng”.

Làm sao Nghị phi không biết ngụ ý của y, trong lòng đắc ý mừng rỡ, nở nụ cười xinh đẹp với hoàng đế.
Hoàng đế chỉ cảm thấy dung nhan hai người như tranh vẽ thì khen rằng: “Thật là đẹp đến cực hạn, trẫm trông các nàng mà vui vẻ khôn tả xiết”.
Trong rừng cây vang tiếng móng ngựa, Như Ý chui ra ngoài nhìn, nói: “Thì ra vạn tuế gia ở chỗ này”.
Cát Tường mắng: “Nói gì đấy?”.
Trời mát mẻ như vậy mà đầu Như Ý lại đầy mồ hôi, hoàng đế mới hỏi: “Việc chi gấp mà chạy thành như vậy?”.
Như Ý xấu hổ, nói: “Việc này… Vừa nãy người đi theo hầu công chúa Cảnh Ưu nói đã lạc mất công chúa, vốn không muốn làm hoàng thượng nhọc lòng…”.
Thị vệ bên này vẫn chưa hay biết, xa xa ngoài vòng nội thần, Khương Phóng nhìn thấy Tịch Tà vô cùng buồn chán, lười biếng thả ngựa rong chơi bèn tiến lên bắt chuyện, thấy sắc mặt hắn mệt nhọc thì lo lắng nói: “Tinh thần công công có vẻ không tốt”.
Tịch Tà cười: “Tối hôm qua, hai chó điên sủa dữ, ta đuổi thẳng đến trấn trên Thượng Giang, đánh chúng gần chết, gọi người dùng thuyền chở về kinh ngay trong đêm, đợi đại thống lĩnh về lột da chúng rồi chần để ăn”.
Khương Phóng cười to: “Không tiêu hóa nổi đâu, đợi trời lạnh hơn hãy nói”.
Tịch Tà than thở: “Không đợi trời lạnh được, có con chó điên chỉ chịu đúng đại thống lĩnh cắn thôi, tôi cũng không trói được”.
“Hừ hừ!” Khương Phóng nói: “Công công dạy bảo giỏi lắm, đừng cố vờ như không biết”.
Tịch Tà ho một tiếng, cười nói: “Đại thống lĩnh thử xem cũng không sao, để cho y biết vỏ quýt dày có móng tay nhọn.

Y rèn luyện nhiều thì mới có lợi đối với hai ta”.
Khương Phóng trầm ngâm trong chốc lát, chợt thấy nội thần rối loạn.

Tịch Tà nói: “Chỉ sợ có sự cố gì, tôi về trước xem thử”.

Chạy về đội ngũ, Như Ý bèn lặng lẽ nói với hắn.

Tịch Tà cười bảo: “Nơi đây đều là đất của hoàng gia, bốn phía bãi săn có bao người giữ, không chạy ra được đâu.

Nói không chừng là ngựa mệt nên tụt lại phía sau, để em vòng về xem thử”.
“Chớ làm ầm lên đấy”.

Như Ý nói: “Ngoại thần vẫn chưa biết đâu”.
“Em biết mà”.

Tịch Tà để ý, không dẫn người theo mà một mình giục ngựa trở về tìm kiếm.

Hắn biết chỗ có thể nghỉ chân ở đây chỉ có nhà thuỷ tạ trong hồ, lúc sắp đến thì mau chóng quất roi ngựa vun vút, siết chặt dây cương, ghìm cho ngựa hí không ngừng.

Quả nhiên ở con đường nhỏ bên hồ trước mặt có người phóng ngựa đến, quát: “Vị nào?”
Tịch Tà cười nói: “Thì ra là Úc thám hoa, tại sao không ở phía trước?”.
Úc Tri Thu đỏ mặt: “Lần đầu đến nên đi nhầm đường.

Sao công công không hầu bên hoàng thượng?”.
“Loạn rồi!” Tịch Tà trông bên cạnh giáp của Úc Tri Thu lộ ra một góc khăn trân châu, đưa tay ra hiệu ở trên người mình: “Công chúa lạc đường, nội thần đều đang tìm, thám hoa chớ đi lung tung, đụng phải phượng giá thì không hay đâu”.
Úc Tri Thu nhét khăn trân châu vào ngực, thẹn đến mức muốn chui xuống đất.

Tịch Tà cười nói: “Xin mau mau về đi, nô tỳ ra bên bờ xem thử, cáo từ”.

Tách gốc liễu ra là thấy hai con ngựa thủng thẳng phía trước, công chúa Cảnh Ưu ngồi ở bên lan can nhà thuỷ tạ, đang ném đá vào trong nước.

Nữ quan bên cạnh thấy Tịch Tà đến gần bèn vội vàng nói nhỏ bên tai nàng.

Công chúa Cảnh Ưu bĩu môi xem thường, ngâm nga hỏi: “Anh là tâm phúc bên cạnh hoàng thượng, chỉ sợ hoàng thượng không thể rời khỏi một khắc, sao lại rảnh rỗi tới chỗ này?”.

“Vạn tuế gia không thấy công chúa, nhớ đến nên mời công chúa về trước thánh giá của hoàng thượng”.
Công chúa Cảnh Ưu đứng lên nói: “Người vây chung quanh, không có lúc nào được tự tại, trông thấy các người đã bực mình rồi”.

Tịch Tà nhìn nàng tùy ý quất roi ngựa tới bèn vội vàng tránh ra xa hơn, chỉ thấy roi dài của công chúa lướt qua, lá liễu trong rừng bay loạn.

Tịch Tà theo sau nàng, chỉ đành cẩn thận che mắt.

Cảnh Ưu đột nhiên dừng bước, hỏi: “Có phải hôm nay rất mát không?”.
Tịch Tà vội vàng cười theo nói: “Đúng ạ”.
“Đã nói mà, gió mát biết bao”.

Công chúa Cảnh Ưu đưa hai cánh tay ra, lá liễu bị gió cuốn qua đính vào quần áo, trên mặt, trên tóc của nàng, không biết nàng nhớ tới cái gì mà ngửa đầu vui vẻ cười.
Sau khi đi săn, hoàng đế lại nghỉ ngơi một ngày, chuẩn bị vật ngự dụng rồi mới chào từ giã với thái hậu, để hoàng hậu lại hầu từ giá của thái hậu, thái phi, mang theo Nghị phi, Hoà thục nghi đi về kinh thành theo đường bộ.

Vì đã lên chức, có được phẩm cấp nên chuyện đầu tiên của Tịch Tà là đến phủ nội vụ chuyển giao giấy tờ, xin đổi lệnh bài.

Ai ngờ phủ nội vụ đã được tin từ lâu, quản sự đang cầm lệnh bài ngà trắng như tuyết đi ra, cười nói: “Con bài ngà của anh sáu đã làm được mấy ngày rồi, chúc mừng chúc mừng”.
“Ôi, phiền các vị đại nhân để tâm rồi”.

Tịch Tà vội vàng kêu Tiểu Thuận Tử dâng quà cảm ơn và đổi lệnh bài gỗ mun.
“Nơi đây còn có quà mừng của Thành Thân vương, bảo tôi thay mặt giao cho anh sáu đây”.

Quản sự bưng một cái tua đeo lệnh bào, trên tơ lụa buộc cài đầy ngọc xanh biếc, lấp lánh loá mắt.
Tịch Tà suýt cười khẩy thành tiếng, nét mặt khó nén kinh ngạc: “Vương gia nhọc lòng rồi.

Hôm khác sẽ dập đầu với vương gia”.

Trở lại phòng, hắn ném bộp tua đeo lệnh bài lên trên bàn, nói với Tiểu Thuận Tử: “Khóa vào, đừng để ta trông thấy nữa”.
“Vâng”.

Tiểu Thuận Tử vuốt ve từng hạt châu ngọc thượng hạng, không biết nó đã chọc giận gì Tịch Tà, thở dài lưu luyến không rời rồi đặt xuống đáy hòm.
Lát sau trước cửa viện Cư Dưỡng đã đông như trẩy hội, các nha môn trong cung đều có mấy người tương quan nhân đến chúc mừng, uống chén trà xong mới tản đi.

Lại có Nghị phi nói Tịch Tà có công hộ giá, sai người trong cung đến ban thưởng, cuối cùng lặng lẽ cười nói: “Nương nương muốn cảm ơn công công đã nói tốt ở trước mặt hoàng thượng”.
“Xin bẩm lại cho nương nương hay…” Tịch Tà nói: “Hoàng thượng nghiêm chỉ không cho nô tỳ đi lại ở các cung nên chỉ đa tạ nương nương quan tâm ở đây thôi.

Chỉ cần sau này nương nương rộng lượng, quý trọng đám người Hoà thục nghi thì hoàng thượng tất nhớ đến sự hiền huệ của nương nương trong lòng, so với người khác thì giống như trên trời dưới đất, chẳng phải sẽ cao hơn một tầng hay sao?”
“Công công nói phải”.

Người nọ thấy Tịch Tà hơi mệt mỏi liền vội vàng xin từ biệt.
Tịch Tà hiếm khi rảnh rỗi, nâng chén trà lên, đã nguội từ lâu rồi.

Từ sau khi hắn trúng độc làm vết thương cũ tái phát, Minh Châu luôn săn sóc chu đáo, vả lại trời thì nóng nên nước trà ấm vừa miệng.

Lúc này nhớ tới Minh Châu vẫn còn ở Thượng Giang, không khí trong phòng như thiếu thứ gì, khiến hắn không sao tự tại được.
Hôm sau thức dậy lúc hửng sáng, trên ghế ngoài phòng ngủ vẫn mắc quần áo trong cung mới giặt, mặt trên lại đặt một cái tua đeo lệnh bài mới tinh màu xanh đậm, trên tơ lụa mảnh nhường ấy chằng chịt một bông mai mới thêu, tài thêu tinh tế, thanh nhã đập vào mặt, chính là vết tích của Minh Châu.

Tiểu Thuận Tử dụi mắt đi ra chào: “Thầy dậy sớm thế”.
“Cái này từ đâu ra?”
Tiểu Thuận Tử nhìn một lát: “Tối hôm qua con thu xếp hành lý thầy mang về từ Thượng Giang thì thấy, cứ tưởng hôm nay thầy muốn đeo.

Hay là còn đổi cái cũ kia nhé?”.
Tịch Tà nắm tua đeo lệnh bài ở trong tay, nhìn kỹ rồi mỉm cười: “Không, cái này là được rồi”.
Tiểu Thuận Tử ghé vào trước mắt Tịch Tà, nói: “Con theo thầy nhiều năm như vậy, hiếm thấy thầy vui vẻ thật lòng.

Cái tua đeo lệnh bài sợi vàng sợi bạc gì thế? Con phải nhìn cho kỹ, để mở mang kiến thức”.
“Ba hoa!”
Tiểu Thuận Tử vui vẻ “phì” một tiếng, uốn người bỏ chạy: “Thầy mau lên đi, nếu mà muộn thì người xui xẻo lại là chân chó Tiểu Thuận Tử này”.
“Biết là tốt”.

Tịch Tà vội vàng thay quần áo, chạy tới cung Càn Thanh, quả nhiên hoàng đế đã dậy, đứng ở bên ngoài tự quạt cho mình, ngửa đầu nhìn sắc trời.

Tịch Tà dập đầu xong liền nói: “Còn chưa tới giờ, hoàng thượng đã chờ ở đây, lát nữa các thần mà biết lẽ nào không hãi?”
“Chỉ là trẫm có điều bận lòng, không ngủ được.

Hôm nay ngắm nhìn điện Thanh Hòa từ nơi này, lúc mặt trời mọc thì bầu trời xán lạn, cung điện huy hoàng, thảo nào bao nhiêu người thèm nhỏ dãi”.

Hoàng đế nói: “Kẻ nào có thể dễ dàng nhường cho người khác món đồ tốt như vậy chứ? Bất kể trong nước ngoài nước, muốn tranh với trẫm thì phải chuẩn bị đền tính mạng đi thôi”.
Như Ý buột miệng khen: “Chính là lý này”.
Hoàng đế nói với Tịch Tà: “Hôm qua mới vừa về cung, Lưu Viễn và Miêu Hạ Linh đã dâng tấu, vẫn là chuyện trưng thu tiền và lương thực ở đất phiên, đại chiến sắp tới, không biết mộ lính ở các nơi có kịp hay không”.
“Chỉ e diễn lại trò cũ không còn tác dụng nữa”.

Tịch Tà thưa.
Hoàng đế bảo: “Trẫm biết đám phiên vương không dễ đối phó.

Hồng Châu là chỗ xung yếu khi Hung Nô xuôi nam, an nguy có can hệ cực lớn đến chuyện này, Hồng vương sẽ không sinh lắm thị phi.

Chỉ là trong lòng cha con Đỗ Hoàn có ý đồ xấu, chỉ cần bắt lấy ông ta thì những người khác đều dễ xử lý”.
Nói thì nói vậy, thật sự phải nghĩ ra được thượng sách ngay cũng rất khó, cuối cùng hoàng đế vẫn theo sớ mà đám Lưu Viễn dâng lên, để Miêu Hạ Linh dẫn đầu việc này, tăng số người tuần phủ, chiêu mộ binh lính, tăng thuế khoán các nơi.
“Trăm họ đã rất khó, các khanh nhớ kỹ chức trách của tuần phủ không phải là kề dao trên cổ trăm họ ép họ nôn tiền ra, chuyện tăng thuế khoán phải cân nhắc dân tình địa phương, càng phải đề phòng những kẻ không có lương tâm mưu lợi bất chính từ đó”.
Ông Trực nói: “Triều đình cần người thì muốn bao nhiêu có bấy nhiêu, nhưng ngựa lại là một chuyện khác”.
Hoàng đế nói: “Từ trước đến nay, hai châu Thanh, Hồng và cả Bạch Dương tạo ra nhiều ngựa tốt, bộ binh hãy đi thương lượng với họ”.
Tịch Tà chợt cười nói: “Tập tính dân Bạch Dương dũng mãnh, những dân chăn nuôi này thích mềm mỏng không thích cứng rắn, triều đình không thể cưỡng ép trưng thu, người phái đi càng phải lanh trí, giỏi giao thiệp”.
Ông Trực nói: “Lời này có lý”.
“Khanh tiến cử một người đi”.

Hoàng đế nói với Tịch Tà.
“Nô tỳ thấy Lục Quá rất khát”.
“Liệu tuổi có quá trẻ không?” Ông Trực lại hơi lo âu.

Xưa nay La Tấn và ông ta có quan hệ tốt, vội vàng lén kéo góc áo ông ta.

Ông Trực lập tức hiểu ý, cười rằng: “Hãy để anh ta thử trước xem sao”.

Thành Thân vương ngồi gần nên thấy rõ, lòng thầm mắng một câu cáo già: Lục Quá là người Tịch Tà tiến cử, dù làm việc không hiệu quả, thậm chí còn dấy lên dân biến ở Bạch Dương cũng không liên quan đến Ông Trực thì cớ sao không làm? Đến khi đi xuống từ trên điện, y lặng lẽ vẫy tay với Tịch Tà, hỏi: “Rốt cuộc Lục Quá này thế nào? Ông Trực đang chờ xem trò cười đấy!”
Tịch Tà cười thưa: “Không sao cả, nô tỳ tự có sắp xếp, làm phiền vương gia nhọc lòng rồi.

Nô tỳ xin nhận ban thưởng hôm qua của vương gia, đợi lúc rảnh rỗi sẽ đến phủ vương gia dập đầu.

Có điều món đồ kia quá quý giá, sợ người khác thấy thì không tốt nên không dám mang theo bên mình”.
Thành Thân vương nhìn nụ cười chói mắt của Tịch Tà, bỗng muốn nói lại thôi, chỉ bảo: “Vậy là tốt rồi, lúc rảnh rỗi anh hãy tới, ta sẽ chờ”.
Người chọn làm tuần phủ vẫn đợi được định ra, ý hoàng đế là phải đợi tấu chương của Lương vương tới mới đi phân công, chỉ có một mình Lục Quá chưa được mấy ngày đã phải rời kinh đến Bạch Dương.

Trong cung có người mang hộ thiếp mời tới, là Tịch Tà bày tiệc rượu ở ngõ Tiêu Chi tiễn anh ta.

Lục Quá biết việc lần này chính là Tịch Tà tiến cử, biết hắn có việc muốn nhắn nhủ bèn từ chối tiệc rượu của đám Du Vân Dao, một mình đi.

Tiểu nhị dẫn anh ta lên lầu, Tịch Tà đã từ trong phòng ra đón: “Anh Lục, đã lâu không gặp”.
“Công công vẫn khỏe chứ?” Lục Quá thấy Tịch Tà thì cũng vui vẻ, hàn huyên vài câu rồi ngồi xuống, nói thẳng: “Lần này công công xin việc khó cho tôi, chắc sớm đã tính trước mọi việc, Lục tôi xin được chỉ cho một hai”.
“Không dám!” Tịch Tà khom người: “Anh Lục là một người thông minh lão luyện, tôi cũng không vòng vo nữa.

Đây là mật chỉ của hoàng thượng, anh Lục cầm đi, đừng xem vội”.
Lục Quá quỳ xuống đón bằng hai tay, cẩn thận bỏ vào trong ngực.

Tịch Tà nói: “Người Bạch Dương hung hãn nhưng hào hùng, nghĩa khí, xử trí thoả đáng rồi thì việc gì cũng dễ, nếu như đắc tội dân bản xứ tạo ra dân biến thì tính mệnh anh Lục và tính mạng của tôi đều rất khó nói”.
Lục Quá nói: “Tôi cũng đã suy nghĩ chuyện này hồi lâu.

Theo tôi thấy, chuyện này không thể coi trọng hai chữ ‘ép trưng’, bất kể tiền nhiều tiền ít thì triều đình bỏ vốn mua ngựa địa phương vẫn là kế hay”.
Tịch Tà cười nói: “Tôi không nhìn lầm người rồi”.
“Đấy chỉ là một chuyện”.

Lục Quá cau mày bảo: “Tiền của triều đình không đủ, tôi lại đi với hai bàn tay trắng, lấy cái gì mua đây?”.
Tịch Tà chỉ vào ngực Lục Quá, mỉm cười không nói.

Lục Quá đưa tay sờ lên cuốn mật chỉ đó, bỗng bừng tỉnh.

Tịch Tà nói: “Thủ lính người buôn ngựa vùng Bạch Dương Lạc châu họ Bạch, tôi đã thông qua bạn bè thông báo gã chăm sóc anh Lục.

Chỉ sợ anh Lục không quen cuộc sống ở Bạch Dương nên dẫn anh Lục gặp một người bạn ở đây”.

Tai nghe tiếng bước chân vang ở thang lầu thì cười nói: “Y tới đúng lúc thật”.

Đoạn đứng dậy mở rộng cửa, kéo một thanh niên vào, Lục Quá vừa thấy đã hết sức ngạc nhiên.
Thanh niên kia lớn tiếng nói: “Võ trạng nguyên gì? Người này là bại tướng dưới tay tôi, anh muốn tôi làm chân chạy cho anh ta, tôi không làm đâu”.
Tịch Tà chế trụ cổ tay thanh niên kia, mặc cho thân hình người nọ cao lớn, giãy mấy cái làm mặt đỏ lên mà cũng không nhúc nhích mảy may.

Tịch Tà vội vàng cười nói với Lục Quá: “Đây là anh em ta, tên Lý Sư, người Bạch Dương.

Hai người đã gặp rồi đấy”.
Lục Quá đứng lên nói: “Thì ra công công đã khiến y…”
“Đã cái gì?” Lý Sư tỏ vẻ không vui: “Tôi đã nói rồi, tôi không làm”.
Tịch Tà đặt y xuống ghế, cười nhạt bảo: “Không làm cũng được, anh cũng không cần làm chân chạy nữa.

Về thẳng nhà đi, đừng lượn lờ trước mắt tôi nữa”.
Lý Sư lập tức nản lòng, bĩu môi không nói lời nào.

Lục Quá vội lắc tay, nói: “Tôi xin nhận ý tốt của công công trong lòng.

Anh Lý này võ công cao cường, tôi lại từng chịu thiệt thòi từ y, trên đường anh Lý mà sơ xuất, công công tất sẽ trách tôi lợi dụg việc công để trả thù riêng.

Nếu tôi xảy ra chuyện không may ở Bạch Dương, công công cũng sẽ oán giận anh Lý bắt nạt tôi võ công thấp.

Hay là thôi đi”.
Lý Sư nhảy bật lên, bắt vạt áo Lục Quá lại, nói: “Nghe này, Lý Sư tôi sẽ không bắt nạt người khác, có tôi thì anh đừng hòng có sơ xuất gì, đến Bạch Dương rồi, tôi đảm bảo anh sẽ bình an”.
Tịch Tà cười nói: “Vậy là tốt rồi, chuyện này mà được thuận lợi thì chỉ cần hai tháng là về”.

Hắn tác hai người ra, rót cho mỗi bên một chén rượu.

Lý Sư căm tức liếc Lục Quá, “hừ” một tiếng, uống một hơi cạn sạch.

Tịch Tà thấy đã giao củ khoai nóng Lý Sư này vào tay Lục Quá rồi liền vội rút người cáo từ, đi xuống lầu đã thấy Thẩm Phi Phi ngồi uống rượu, cười nói: “Anh Thẩm đang đợi ai đấy?”
Thẩm Phi Phi ngửa đầu nhìn thoáng lên trên lầu, nói: “Dù sao cũng chẳng phải tên ngốc kia”.
“Thế đang chờ tôi à?”
“Có bốn phần”.
Tịch Tà cười nói: “Còn có sáu phần ắt là mong được gặp Minh Châu một lần.

Đáng tiếc giờ nàng ấy còn đang ở hành cung Thượng Giang, mấy ngày nữa mới về”.
Một chén rượu sầu xuống bụng, Thẩm Phi Phi lắc đầu cười khổ nói: “Thẩm Phi Phi tôi tuấn tú lịch sự…”
Tịch Tà vội nói: “Phải”.
“Phong lưu phóng khoáng…”
“Phải”.
“Lại là một người đàn ông thực thụ, có điểm nào không mạnh bằng anh?”
Tịch Tà biết gã đã ngà ngà nên không tức giận, chỉ cười rằng: “Trên trời dưới đất không so được”.
“Vậy anh nói xem, vì sao tấm lòng của nàng đều đặt ở trên người anh?”
Tịch Tà bỗng nghẹn lời, mình cũng trăm mối không lời giải, lắc đầu than thở: “Tôi không biết”.
Thẩm Phi Phi cả giận nói: “Chờ nàng trở lại, tôi phải đi hỏi cho rõ”.

Gã đặt bốp thỏi bạc lên bàn, đứng dậy đi.

Tịch Tà vội vàng gọi người tính tiền, đuổi ra ngoài cửa, Thẩm Phi Phi đã không thấy bóng dáng.
Tịch Tà đi xuyên qua trời chiều nóng hừng hực, một lần nữa suy nghĩ lại buổi nói chuyện với Thẩm Phi Phi, càng nghĩ càng thấy lòng dạ sầu muộn, trán má cực nóng, trở lại trong phòng thì tựa đầu lên trên giường.


Có người nhẹ tay nhẹ chân mở cửa sổ ra cho thông gió, trên bàn đầu giường vang lên tiếp lộp cộp, quần áo lay động dưới đèn, Minh Châu hạ người xuống hỏi: “Lục gia ăn chút đồ nóng cho đổ mồ hôi nhé?”.
Tịch Tà ngửa người, kinh ngạc hỏi: “Sao cô lại về?”.
“Thái hậu về kinh, dĩ nhiên tôi theo về rồi”.
“Có mệt không?”
“Vẫn ổn.

Trái lại Lục gia chạy tới liều mạng, lại chạy về vội vàng, sao không ốm cho được?”
“Bị ốm á? Tự tôi lại không nhận ra”.

Tịch Tà cười nói, ngồi ở bên bàn đón lấy cháo nóng trong tay Minh Châu: “Thái hậu không làm khó cô chứ?”.
Minh Châu suy nghĩ một lát mới nói: “Không ạ.

Lúc nào cũng nghe Ngô Thập Lục mở miệng ra là ‘yêu phụ yêu phụ’ nhưng nhiều ngày đi theo bên cạnh lại cảm thấy bà ta ôn hòa, cũng phân rõ phải trái”.
Tịch Tà nói: “Tôi cũng biết”.

Hắn đảo mắt nhìn thấy sắc trời tối om om: “Mấy giờ rồi, cảm thấy tôi ngủ giấc này đã rất lâu”.
“Còn không phải ư? Đã qua canh ba rồi.

Tôi tới từ lúc ăn cơm tối, gia vẫn ngủ không biết gì.

Vừa nãy Tiểu Thuận Tử thấy hình như lục gia hơi nóng bèn chạy tới gọi tôi dậy”.
Tay đang cầm cháo của Tịch Tà không khỏi run rẩy: “Phiền hai người rồi”.
Ngoài cửa sổ khẽ soạt một tiếng, hai người cảnh giác quay đầu, đã thấy Khương Phóng liếc vào trong, cau mày hỏi: “Nhị vị đều ở đây à?”.
Tịch Tà rất lấy làm lạ, nói: “Vào đây nói đi”.
Khương Phóng cười, nhẹ nhàng bay vào từ cửa sổ, nói: “Tối hôm nay không yên ổn, có người bẩm tôi có tiếng động ở trên góc đông bắc thành cung, tôi chạy tới lại không thấy bóng người.

Tôi nghĩ bình thường gia và cô nương hay ra vào từ nơi đó, dù đêm nay muốn rời cung thì tôi cũng nên nhận được tin, không để người ta làm ầm lên mà tới xem thử trước”.
Minh Châu cười nói: “Chúng tôi muốn ra ngoài, cho dù đi qua trước mắt anh ta cũng chưa chắc sẽ để anh ta nhìn thấy”.
Khương Phóng nói: “Phải phải phải.

Thế thì lạ thật, nếu là thích khách thì trong cung lại chẳng có chút động tĩnh nào…”
Tịch Tà đột nhiên nói: “A!”.
“Sao vậy?”
“Chẳng lẽ là Thẩm Phi Phi?”
Ánh mặt trời lốm đốm xuyên qua bóng râm rậm rạp trên đỉnh đầu, vẽ hoa lên mặt Thẩm Phi Phi, đong đưa theo cơn gió muộn trên khuôn mặt mang tâm trạng bất ổn của gã.

Thẩm Phi Phi bị chói mắt, dùng tay áo che đầu, trở mình, càng nghe càng thấy ve sầu kêu ra rả, chợt nhảy lên, dốc sức đá một cú về phía thân cây: “Ni cô đều chết sạch rồi, mày còn niệm kinh gì nữa!”.

Ve sầu lập tức ngừng kêu, am Tịnh Thủy yên tĩnh không tiếng động.

Thẩm Phi Phi lại ngẩn người, xoa từng vết kiếm trên thân cây, nhíu mày thật chặt.

Khóe mắt gã thoáng thấy một thiếu niên gầy gò mặc áo lam đi vào cửa, chỉ cảm thấy hắn quấy rối nỗi phiền muộn tình cảm hiếm có của mình, hung dữ nói: “Nơi đây không có hương để thắp đâu, đi nơi khác đi”.
Lông mày giá rét trên khuôn mặt trắng nõn của thiếu niên kia nhếch lên, lạnh lùng bảo: “Thẩm Phi Phi”.
“Minh Châu cô nương!” Thẩm Phi Phi nghe tiếng nàng, tinh thần đột nhiên chấn động, vui vẻ ra mặt chạy tới: “Cô nương không chút phấn son, mặc quần áo nam lại trông như vậy, như vậy…” Sự hoan hỉ trong lòng gã xông lên, không khỏi nghẹn ngào.
Minh Châu lùi lại một bước, cười nhạt nói: “Tên cậu tặc to gan lớn mật này! Quấn lấy tôi ở bên ngoài thì cũng đành, lại dám xông vào hoàng cung lúc đêm khuya!”.
“Cái gì?” Nhiệt huyết của Thẩm Phi Phi bị nàng tạt một gáo nước lạnh, bỗng chết lặng người.
“Anh xông vào hành cung Thượng Giang, nhờ có bạn của lục gia giải vây cho anh, anh còn không biết hối cải.

Nếu như đêm qua gây ra họa lớn, chẳng phải lục gia bị anh liên lụy đến chết? Nếu không có lục gia mở một mặt lưới thì hôm nay tôi tới phải đâm anh một kiếm đầu tiên”.

Minh Châu không kiềm được cơn giận, quát lên: “Bây giờ anh mau cút khỏi kinh thành cho tôi, còn để cho tôi trông thấy nữa thì nhất định sẽ kết liễu tính mạng của anh”.
Thẩm Phi Phi ngây ngốc nhìn nàng phất ống tay áo xoay người ra ngoài, đột nhiên tỉnh lại, đuổi theo mấy bước, vọt đến trước mặt Minh Châu: “Chờ đã!” Lửa giận hừng hực đốt mắt Thẩm Phi Phi trở nên sáng như tuyết: “Cô nói đêm hôm qua tôi xông vào hoàng cung, cô trông thấy à? Bắt được à?”
Minh Châu hừ một tiếng: “Lúc này anh chớ phủ nhận những lời không biết liêm sỉ mà anh đã nói với lục gia”.
“Không sai, tôi định tìm cô.

Nhưng làm sao tôi biết đêm hôm qua cô về kinh?”
Minh Châu bị gã nói cho ngẩn ra.

Thẩm Phi Phi đã tới gần một bước, bảo: “Nếu như Thẩm Phi Phi tôi muốn vào hoàng cung thì dù vạn người canh gác vẫn không thấy bóng dáng.

Nếu tôi vào cung tìm cô, dù cho lật hết cung Càn Thanh cũng nhất định phải tìm bằng được mới thôi, quyết không dừng! Lục gia mà cô luôn miệng gọi, hừ hừ, vào hoàng cung giết người thì tính là chuyện lớn tài ba gì? Vì hắn, cô đã chuyện bé xé ra to, chạy tới giết tôi, chỉ sợ hắn chẳng cau mày lấy một cái.

Hôm nay tôi nói cho cô biết, hắn không xứng với cô, không xứng!”
Minh Châu giận dữ, tay giữ hai chiếc kim bạc, cổ tay trắng khẽ động đậy lại bị Thẩm Phi Phi nắm được, túm vào ngực.

Gã nhìn chằm chằm vào mắt Minh Châu và nói: “Tôi thích cô là phải có được, tôi chẳng quan tâm tạo phản ai.

Tôi chắc chắn sẽ tranh giành, chắc chắn sẽ đấu với Tịch Tà, cô chờ mà xem”.
Minh Châu bị ánh mắt nóng của gã làm cho không mở nổi mắt, tay phải giãy giụa, sợi màu trong ống tay áo bay nhanh, một chiếc kim bạc xuyên thủng cổ tay Thẩm Phi Phi, đâm phậm lên quần áo trước ngựa gã.

Gã khẽ nhíu mày, tay lại càng siết chặt hơn, nói: “Đau”.
“Biết là tốt!” Minh Châu nghiến lợi nói: “Buông tay”.
Trên gương mặt tức giận đến trắng bệch, ánh mắt trời càng sáng chói mắt.

Ánh mắt Thẩm Phi Phi lấp lánh một lát mới chậm rãi thả lỏng ngón tay ra.
Minh Châu rút tay về, dùng sức lau lên quần áo, vòng qua Thẩm Phi Phi đi lên trên bậc.

“Này!” Nàng chắp tay sau lưng, dừng chân dưới bóng râm ở cửa, cao giọng cười, lại có chút phong thái hào hiệp, kiêu ngạo của thiếu niên quý tộc: “Anh cạnh tranh thế nào, đấu thế nào? Tôi chờ xem đấy”.
“Hả?” Thẩm Phi Phi bỗng cảm thấy tiếng trời truyền đến, hoa bay đầy trời.

Lúc đầu váng mắt hoa, hắn đuổi theo sau Minh Châu: “Cô nương Minh Châu, cô có ý gì?”.

Trước cửa am, ngựa hí một tiếng, Minh Châu vòng đầu ngựa trợn mắt với gã từ xa, cách ngăn rừng liễu xanh biếc, rong ruổi đi xa.
“Theo lời cô nói, tối hôm qua quả thực không phải Thẩm Phi Phi”.

Tịch Tà nghe Minh Châu báo lại, cũng khá bất ngờ: “Nghe giọng điệu của gã, gã lại chưa từng nảy sinh ý nghĩ vào cung tìm cô.

Gã có thể xông đến Thượng Giang, vì sao không vào trong này?”.
“Lục gia mong gã vào gây sự lắm à?” Minh Châu hãy còn nhìn vết bầm đen trên cổ tay mình, trách móc một câu.
“Để tôi xem nào”.

Tịch Tà kéo tay Minh Châu, cười nói.

Minh Châu trông mắt hắn cụp xuống thật thấp, cổ tay truyền đến nhiệt độ cơ thể mát mẻ của hắn, không lên tiếng.

“Đúng là không biết chừng mực, chỉ sợ sẽ tím mấy ngày”.
Minh Châu dùng tay áo che cổ tay lại, bảo: “Cũng chẳng sao”.
Tịch Tà nhẹ giọng cười, đứng lên bước sang một bên: “Không phải Thẩm Phi Phi thì là ai? Rốt cuộc là người lộ nào? Muốn làm cái gì?” Trong lúc trầm ngâm, hắn than thở: “Càng nghĩ càng thấy đau đầu”.
“Khương Phóng biết cách xử trí chuyện này, lục gia cần gì phải để ý?” Minh Châu nói: “Bây giờ chuyện quan trọng nhất vẫn là tin tức của Quân Thành ở phương bắc”.
Tịch Tà nói: “Đúng, cô nói không sai.

Điệp báo của chúng ta đã tới, quả nhiên Quân Thành dần dần hồi phục, người này đúng là cừ khôi”.
“Tôi không rõ…” Minh Châu cau mày nói dưới ánh đèn: “Người hầu hạ gia trong thiên hạ đâu chỉ nghìn vạn, sao không tìm một hai kẻ có năng lực ám sát Quân Thành, một trận đại chiến trung nguyên sẽ bị tiêu trừ trong vô hình.

Cho dù chiêu này thấp kém cũng không thể không nói công đức lớn lao”.
“Mầm tai họa của trung nguyên không ở bên ngoài mà ở bên trong”.


Tịch Tà thở dài một tiếng: “Hiện nay duy trì chút thái bình ấy toàn nhờ có kẻ thù bên ngoài dòm ngó, hai châu Hồng, Thanh mới không dám hành động thiếu suy nghĩ, như vậy, cai trị được hai vương Đông, Tây, triều đình mới có vài chục năm nghỉ xả hơi.

Một ngày Hung Nô tự mình tan tác, hai vị vương gia phương Bắc không có nỗi lo phía sau, sẽ có cơ hội đưa đại quân xuôi nam.

Nhà họ Đỗ phía nam lại tính xưng hoàng, trận nội chiến này kéo hơn mười năm thì trung nguyên phải chết bao nhiêu người?”.
Minh Châu nói: “Lẽ nào giao chiến với Hung Nô lại có lợi khôn tả đối với triều đình?”.
“Cái lợi này…” Tịch Tà mỉm cười nói: “Chỉ có để sau này chờ xem thôi”.
Hoàng đế lấy được tin tức của Quân Thành là vào nửa tháng sau.

Trong số tuần phủ mà đám Miêu Hạ Linh xin phái đi, chỉ có người phái đến chỗ Đông vương là hoàng đế không hài lòng lắm, bèn do bố chánh sử Hàn châu Thái Tư Tề và tri phủ Hàn châu Vu Bộ Chi kiêm nhiệm.
Tuy hoàng đế biết lần này trưng thu quân lương đã chạm đến chỗ đau của đám phiên vương, tất sẽ sinh rắc rồi nhưng lúc này cũng chỉ đành mặc cho số phận, tạm thời gạt sang một bên, vội vã bàn bạc chuyện gấp khác với Tịch Tà.

Hai tháng trôi qua, ngoại trừ Lục Quá, các nơi khác đều không thấy tin tức tốt nào được chuyển tới.
Trước có tấu của Miêu Hạ Linh bẩm rằng thuế má của vài châu phủ đã nặng đến tột đỉnh, kho bạc lại không còn dư mấy, quan viên địa phương có nhiều hiềm nghi tham ô, không làm tròn trách nhiệm.

Miêu Hạ Linh chủ trương điều tra, vội vã dâng liền ba tấu để xin chỉ.
Còn có đám phiên vương tôn thất Sào châu không nhiều của cải, lần trước bị sứ trưng lương ép ra vài chục vạn lượng đã oán than dậy đất, lần này miễn cưỡng ép cũng không hợp với đạo làm người.

Có mấy thân vương nóng mắt, khó tránh oán rằng Hung Nô đã lui quân, dưới thời thịnh trị thái bình mà hoàng đế còn trưng lương chuẩn bị lính, chê trách là quá hiếu chiến.

Còn Hồng vương chỉ một mực lần lữa, người hoàng đế phái đi không đánh, không mắng, không thúc giục được vị vương gia già khí phách tuyệt thế, uy phong lừng lẫy này, đúng là không biết làm sao.

Khiến hoàng đế phẫn nộ vẫn là Đông vương Đỗ Hoàn và Tây vương Bạch Đông Lâu.

Bọn họ chẳng những từ chối giao nộp quân lương, còn bẩm trên tấu rằng: Giặc Oa, người Miêu làm loạn ở trong khu vực của mỗi người, lương bổng của lính phiên còn thiếu, nếu tất cả quân bị đều nộp lên trên triều đình, biên cương hai nơi căng thẳng thì mình không gánh nổi trách nhiệm.

Trong lời nói có ý dọa dẫm, dùng thế lực bắt ép.
Hoàng đế suýt nữa bóp nát tấu của hai người.

Tịch Tà bước lên phía trước, hỏi: “Hoàng thượng nổi giận như vậy là vì chuyện gì vậy? Nô tỳ có thể xem hai quyển sổ con này không ạ?”.
Hoàng đế thả lỏng ngón tay ra, từ trên khuôn mặt xanh mét lộ ra sắc chán nản, chậm rãi nói: “Khanh xem đi”.

Hắn ta ngồi lên trên giường rồi nghiêng người nhìn Tịch Tà vuốt phẳng quyển sổ gấp, mau chóng đọc xong.

“Quả nhiên vẫn là Đỗ Hoàn”.

Hoàng đế ngửa mặt thở hắt ra: “Trẫm hận không thể…”.
“Bạch Đông Lâu chỉ vẽ đường cho hươu chạy, không đáng để lo”.

Tịch Tà nói: “Quyển tấu chương này của ông ta tới rất đúng lúc, nô tỳ phải chúc mừng vạn tuế gia trước”.
“Lúc này rồi còn có gì để vui mừng?”
Tịch Tà tâu: “Nô tỳ nhận được một tin, gần đây Đại Lý có sự thay đổi.

Đoàn Bỉnh bị người ta hạ độc, suýt nữa mù mắt, hơn năm trăm người trong vương phủ hận thù sục sôi, nhảy vào phủ An Vương của Đoàn Thừa, không ngờ đã giết chết Đoàn Thừa”.
Hoàng đế ngẩn ra: “Đoàn Thừa chết rồi ư? Chuyện khi nào đấy?”.
“Hai mươi sáu tháng Chín ạ”.

Tịch Tà cười nói.
“Nói bậy!” Hoàng đế không nhịn được, cũng cười: “Hôm nay mới là ngày mùng tám tháng Chín”.
Tịch Tà nghiêm túc nói: “Đúng là vào ngày hai mươi sáu tháng Chín”.
Hoàng đế nhìn bốn phía, chỉ có Cát Tường đứng bên ngoài: “Có bao nhiêu người biết chuyện này?”.
“Rất ít ạ”.
“Giết anh là tội lớn…” Hoàng đế ngồi dậy, thấp giọng hỏi: “Dù Đoàn Thừa chết, Đoàn Bỉnh ngồi yên được trên ngôi vương à?”.
“Đại Lý chỉ còn một vương tử là Đoàn Bỉnh, chỉ cần công chúa trung nguyên gả cho, bề ngoài hoàng thượng ủng hộ anh ta thì trong triều Đại Lý sẽ không còn có ý kiến khác”.
“Còn có mười tám ngày”.

Hoàng đế gật đầu: “Hiện Miêu Hạ Linh ở Ngô châu, bảo hắn ta bí mật mang theo quốc thư của trẫm, phải đến được thành Đại Lý vào ngày hai mươi bảy tháng Chín, gặp mặt Đại Lý vương bàn việc kết thân”.
Tịch Tà cười vén tay áo lên, chấm mực viết thư: “Hoàng thượng vẫn chưa chỉ ra rốt cuộc là gả vị công chúa nào?”.
“Còn ai vào đây nữa? Tất nhiên là công chúa Cảnh Ưu rồi”.

Hoàng đế không khỏi ưỡn người, lộ ra hàng mày hiên ngang: “Như vậy, Đoàn Bỉnh dựa theo trao đổi trước kia là dẹp yên người Miêu vì trung nguyên.

Phía nam bớt đi một mối tai họa, lời Bạch Đông Lâu trong tấu chương chỉ chờ trẫm bác bỏ tử tế, xem ông ta còn kéo dài quân lương thế nào nữa”.
“Đông vương sắp vào thế cô lập, công chúa lại được chồng hiền, hoàng thượng đại hỉ rồi”.

Tịch Tà thấy mặt mày hắn ta tươi như hoa thì cũng vui vẻ thật lòng.
Hoàng đế cười bảo: “Thật ra còn có một chuyện vui mừng nữa, trẫm đang bực bội nên quên nói.

Lần này Lục Quá làm việc rất tốt, ngày mai hắn sẽ đến kinh báo cáo, trẫm muốn đích thân ngợi khen, khanh nói cho bộ binh đi”.
Lúc này hoàng đế muốn dùng cơm tối, Tịch Tà tranh thủ thời gian lặng lẽ tụ họp với Khương Phóng, lệnh cho anh ta sai người đắc lực theo dõi người mà Miêu Hạ Linh hạ mật chỉ một cách sát sao, cần phải bảo vệ mật chỉ chu đáo, sau đó cũng hộ tống cả Miêu Hạ Linh đến Đại Lý được bình an, sự việc quan trọng, quyết không được tiết lộ chút tin tức nào.

Khương Phóng cười bảo: “Người đắc lực? Ở đây sẵn có một người, lúc nhá nhem Lý Sư và Lục Quá vào kinh, gia lại đuổi thằng nhãi kia ra ngoài để tôi được sống mấy ngày thanh tĩnh thái bình”.
“Ồ? Bọn họ đến rồi?” Tịch Tà vui vẻ trong lòng: “Nhưng lại đẩy Lý Sư đi cũng khó, đại thống lĩnh bỏ quá cho y tạm thời ở lại kinh thành đi”.

Đợi việc ở cung Càn Thanh vừa xong, hắn vội vàng chạy về viện Cư Dưỡng, nói với Minh Châu: “Hôm nay Lý Sư về kinh rồi, chúng ta đi thăm y nào”.
“Chỉ cần có thể ra ngoài giải sầu thì thăm ai cũng được”.

Minh Châu cười hỏi: “Khi nào thì đi ạ?”
“Các cung đều an giấc, chúng ta ra ngoài ngay thôi”.
Tiểu Thuận Tử thấy hai người họ đều trông về hướng mình, bĩu môi nói: “Ăn, ngủ, giữ nhà”.
“Thông minh hơn rồi đấy”.

Minh Châu và Tịch Tà cùng cười.
Họ đã quen đi con đường phía đông bắc này nhưng đến khi vườn Minh Tri, hơi sương đêm lẫn trong gió thu phả vào mặt làm Tịch Tà không kiềm được rùng mình.

Minh Châu đi theo phía sau hắn nên thấy rõ, thấp giọng hỏi: “Lục gia sao thế? Lạnh à?”
“Vẫn ổn”.

Tịch Tà chỉ cảm thấy từng ngọn cây cọng cỏ trong vườn Minh Tri đều ngâm trong cơn ơn lạnh, buốt giá, dần dần xuyên qua quanh người mình.

Mùa thu tới thật rồi.
“A!” Đột nhiên một tiếng thở dài xa xăm truyền đến từ trong bóng cây, Tịch Tà và Minh Châu nhìn nhau, cúi mình lặng lẽ đi đến.
Dưới cây tùng to như rồng, thiếu nữ áo tím đang tựa ở trên cành tùng rủ xuống, gắng sức mà ngất ngây ngửa cơ thể về đằng sau, vòng eo cong như cây cung căng hết cỡ, trong vạt áo sắc tím mềm mại, làn da trắng như tuyết đập vào mắt trong bóng cây âm u.

Người trẻ tuổi dùng hai cánh tay khóa chặt lấy nàng đang chôn đôi môi run rẩy ở trên lồng ngực nàng.
Minh Châu dùng âm thanh gần như không nghe được mà xì một tiếng khinh miệt, đỏ mặt trốn phía sau Tịch Tà.

Dường như đôi nam nữ quấn lấy nhau không chịu nổi, bị cơn tình nóng bỏng của mình đốt sạch, chậm rãi buông lỏng hai cánh tay ra.

Thiếu nữ thở hổn hển rõ ràng, đứng thẳng người, sườn mặt xinh đẹp quật cường được ánh trăng chiếu đến mức sáng trong lạ thường.

Nàng nở nụ cười dịu dàng, vuốt ve khuôn mặt đau khổ mà kích động trong sự nhẫn nại của người trẻ tuổi.

Tịch Tà run lên bần bật, túm lấy áo chỗ ngực nén cơn ho dữ dội đột nhiên xông đến, cảm thấy Minh Châu đưa tay đỡ mình thì xua tay với nàng, chậm rãi lùi lại chỗ tối tăm sâu trong bóng cây.
“Người tôi không khỏe, hôm nay không đi nữa”.

Giọng Tịch Tà có vẻ gian nan, cố hết sức kiềm chế ý muốn giết người đang căng phồng muốn phá ra: “Minh Châu…” Hắn thở dài nói: “Không dùng được tên Úc Tri Thu này rồi”..