Mùa hè ở Ly đô quả thực không dễ chịu, hơn triệu người chen chúc ở trong đô thành đã rất chật hẹp rồi, lại thêm một con sông lớn bốc hơi nước lên càng khiến cơn gió nhỏ như tơ nhện như dính ở trên người, oi bức đến không thở nổi.

Trong chín cây cầu chỉ có cầu Phiêu Hạ còn khá mát mẻ, nhưng vì lắm người sang sông từ chỗ này, ngựa cũng chẳng chạy được.

Đối với Khương Phóng mà nói, chắc chắn là đổ thêm dầu vào lửa.

Khó khăn lắm mới đến trước lầu nóng, anh ta nhảy xuống ngựa, ném dây cương vào tay tiểu nhị và nói: “Chờ đấy!”.

Đoạn bước nhanh lên lầu mà quan sát, vẫn không thấy bóng dáng của Tịch Tà và Minh Châu.

Anh ta chỉ “ha” một tiếng, còn chưa kịp khó chịu đã quay đầu chạy xuống dưới, giục ngựa chạy tới am Tịnh Thủy.

Khương Phóng buộc ngựa vào cây trước cửa am rồi chạy nhanh về phía điện chính.

Quả nhiên nghe thấy Minh Châu nói ở trong sân: “Đúng là đần, nói mấy lần mới biết đây?”.
“Vâng”.

Lý Sư thành thật nói: “Cô múa lại một lần cho tôi xem”.
Minh Châu than thở với Lý Sư: “Không trách anh được.

Chiêu này là Đoạn hồn kiếm mà tứ sư huynh Tiến Bảo của anh sáng tạo ra, đồ ngốc nhà anh làm sao học nổi sự độc ác nham hiểm bên trong?”.

Nói rồi cầm kiếm đứng dưới bóng cây, eo dịu dàng dãn ra, người bỗng ngửa về đắng sau, lật bàn tay một cái, mũi kiếm xẹt qua yết hầu mình cắm phậkp vào trên cây khô.

Ánh mặt trời xuyên qua kẽ lá chiếu lên thân kiếm sáng như tuyết, chiếc cằm mảnh khảnh, trắng nõn ngửa thành một đường thẳng, đẹp đến mức lộng lẫy, giá rét.
“Hay!” Thẩm Phi Phi ở bên cao giọng hoan hô.
Tịch Tà gõ quạt lên ngón tay gã: “Anh còn đánh cờ nữa không?”.
“Còn”.

Thẩm Phi Phi vội vàng né tránh ánh mắt sắc bén của Minh Châu, trông bàn cờ nói: “Anh đánh chỗ nào đấy?”.
Khương Phóng thấy họ hòa thuận vui vẻ, nhàn hạ thoải mái thì càng giận không chỗ phát tiết, sải bước vào trong sân rồi quát to: “Tống Minh Châu tiếp chỉ!”.
Minh Châu vội vàng thu kiếm lại, vừa định cười nói với Khương Phóng đã thấy mắt anh ta như sắp phun ra lửa.

Nàng không biết vì sao anh ta tức giận, bước vội mấy bước, tươi cười quỳ xuống nói: “Nô tỳ Minh Châu tiếp chỉ”.
“Truyền ý chỉ của thái hậu, nữ quan Tống Minh Châu cục Thượng Công lập tức đến hành cung Thượng Giang dạy thêu thùa nữ công, chọn ngày khởi hành không được làm lỡ”.
Dưới hiên, Tịch Tà đứng dậy, chắp tay sau lưng mà mỉm cười, thấy Minh Châu đứng dậy mới bảo: “Tức giận gì thế? Trời nóng bức, uống chén trà trước rồi hẵng nói”.
Nếu Minh Châu đã chịu ấm ức, cơn bực dọc của Khương Phóng cũng tiêu hơn nửa, cướp lấy trà uống vài ngụm rồi nói: “Hoàng thượng muốn ngài giải quyết công việc của cục Châm Công nội trong tháng này nhưng ngài lại ra ngoài chơi, hai hôm chưa về cung thì đáng tội gì?”.
Tịch Tà cười bảo: “Để Tiểu Thuận Tử làm chuyện này là được rồi.

Nơi đây mát hơn trong cung, ở hai ngày để tránh nóng”.
“Hừ hừ…” Khương Phóng cười khẩy, lấy ra ba cuốn sổ gấp da trắng từ trong ngực đưa cho Tịch Tà, “Xem cái này trước đi”.
Tịch Tà tách khỏi Thẩm Phi Phi, mở cuốn thứ nhất.

Thì ra là tai mắt trong kinh của Nhan vương bẩm rằng gần đây có người hành động, nghỉ lại am Tịnh Thủy, hỏi xem có cần điều tra rõ lai lịch hay không.

Tịch Tà bật cười nói: “Lũ dâng miếu Long vương[1], những người này chăm chỉ đấy”.
“Đây vốn là sản nghiệp của vương phủ, tất nhiên phải trông cho kỹ rồi”.
“Không thể ở lại am Tịnh Thủy nữa”.

Tịch Tà thở dài: “Chỗ hóng mát trong kinh thành không nhiều, dè đâu ta vất vả tổ chức mà giờ lại còn bị hại”.

Hắn lại mở cuốn điệp báo khẩn cấp của Tống Biệt vốn đang ở cạnh vương tử Đại Lý là Đoàn Bỉnh ra, nhíu mày nói: “Một người trong cung? Anh nói xem là nhắm vào ai?”.
“Kẻ y muốn giết là người trong cung, còn cần nói nữa sao? Đương nhiên là…” Khương Phóng đảo mắt, nhìn thấy Lý Sư nhìn mình chằm chằm với vẻ hung ác bèn nuốt hai chữ “chủ nhân” vào, thấp giọng nói: “Đương nhiên là ngài”.
“Ta?” Tịch Tà không khỏi cười dài: “Đến đúng lúc lắm!”
Khương Phóng vội nói: “Chỉ e võ công của y ngang hàng với ngài, nếu gặp phải thì ắt cả hai đều thiệt.

Tôi không thấy ngài ở trong cung nên sốt ruột vô cùng, sao hễ nhắc tới Lôi Kỳ Phong là ngài lại hăng hái như thế?”
Tịch Tà cười rằng: “Có thù không báo thì chẳng phải người quân tử”.
Khương Phóng đành nói: “Không nói chuyện này nữa.

Nên trả lời tấu của Tống Biệt thế nào đây?”.
“Lôi Kỳ Phong mai phục ở Đại Lý là để đối phó Đoàn Bỉnh, nay Đông vương rút y lên kinh ám sát ta, nhất định là đã có thủ đoạn quyết sách khác ở Đại Lý.

Anh trả lời Tống Biệt là ra tay trước mới chiếm được lợi thế.

Vua Đại Lý chỉ có hai ngươi con trai, một người chết thì chỉ có Đoàn Bỉnh nối ngôi, không cần sợ trở mặt”.
“Dám chắc là Đông vương ư?”
“Lôi Kỳ Phong chỉ lượn quanh Hồng vương và Đông vương.

Hồng Thất Trú lỗi lạc đa mưu, muốn đối phó tôi còn khinh phải lén lút.

Chỉ là sao Đông vương lại đột nhiên kiêng dè ta chứ?” Tịch Tà lại xem lại sổ gấp một lần, chợt cười gằn: “Lôi Kỳ Phong, hừ hừ”.
Khương Phóng rút sổ gấp của Tống Biệt ra khỏi tay Tịch Tà, nói: “Phong thư thứ ba còn quan trọng hơn”.
Đó là điệp báo phía bắc, thiền vu Quân Thành đã dẹp yên các bộ phận của thảo nguyên, bị thương nặng trong trận chiến ở Hạ Lý Luân.

Con trưởng Tả Đồ Kỳ vương của thiền vu là A Nạp đã điều binh mã Hung Nô đang tấn công vùng Nhạn Môn, Xuất Vân về doanh ứng biến, lúc này Hung Hô gần Lương châu đang lục tục lui binh.

Tịch Tà gập sổ lại đánh cộp một tiếng, hỏi: “Chừng nào thì quân báo khẩn của Tất Long đến kinh?”.
Khương Phóng đáp: “Đoán chừng còn bốn năm ngày”.
“Vậy thì tức là đưa thẳng đến hành cung?” Tịch Tà nhìu mày: “Xem ra ta vẫn phải đến Thượng Giang một chuyến”.
“Thời tiết này không tiện để chủ nhân đi lại”.

Khương Phóng nói: “Vả lại Lôi Kỳ Phong đã ở kinh kỳ, chi bằng thuộc hạ truyền lời thay chủ nhân”.
Tịch Tà lắc đầu: “Sự việc trọng đại, ta vẫn nên tự đi.

Song không có ý chỉ, ta không tiện rời kinh.

Anh hãy mau chóng về Thượng Giang, bảo hoàng đế truyền ta đến đó.

Tróng các thị vệ dưới trướng anh có ai rỗi rãi không?”.
Khương Phóng đáp: “Hiện đều ở Thượng Giang, chỉ có hai người Du Vân Dao, Úc Tri Thu là khá đáng tin”.
“Biết rồi, anh lại xin thủ lệnh cho Úc Tri Thu, cứ nói gã thành thạo bắn cung cưỡi ngựa, hoàng đế muốn gã theo giá đi săn, khởi hành cùng ta cốt để hộ tống”.
“Du Vân Dao há chẳng tốt hơn à?”
“Nếu trên đường đi gặp phải Lôi Kỳ Phong, e là không chết người không xong.

Du Vân Dao cơ trí, chín chắn, là một kẻ tài, ta không muốn bị mất anh ta sớm như vậy”.
Hai người liếc nhau một cái, Khương Phóng chậm rãi gật đầu, cất sổ con định đi.

Lý Sư đi toiws hỏi Tịch Tà: “Người này là ai thế?”.
Tịch Tà nhỏ giọng nói: “Người này chính là đương kim thống lĩnh thị vệ, võ công rất lợi hại, có mấy tay võ cử nhân mà anh đấu lúc trước hiện là thuộc hạ của anh ta đấy”.
“Võ công rất lợi hại?”
Tịch Tà ở bên cạnh mỉnh cười nhìn đôi mắt Lý Sư bắt đầu phát sáng thì đi gọi Minh Châu dọn đồ về cung.
“Này, anh đợi đã”.

Lý Sư bước mấy bước đã đuổi kịp Khương Phóng: “Nghe nói võ công của anh không tệ, chúng ta so tài đi”.
Khương Phóng cười nói: “Tôi là mệnh quan triều đình, anh là giặc cướp dân đen, không đánh cùng được đâu.

Cáo từ”.
Lý Sư quát to: “Để anh tiếp kiếm pháp của giặc cướp dân đen này!”.

Y nâng ngang thanh kiếm định ra chiêu.
Khương Phóng lướt về sau hơn một trượng nhanh như đại bàng, mũi chân nhẹ nhàng chạm đất, người đã lướt ra khỏi cửa, xa xa cười nói: “Kiếm pháp? Anh còn tệ lắm”.
Tịch Tà nhìn vẻ mặt kinh ngạc của Lý Sư dần trở thành hâm mộ thì cười thở dài, thấp giọng lẩm bẩm: “Đáng tiếc”.

Không ngờ Minh Châu đang ở xa xa liếc mình, vì vậy hắn mới ngượng ngùng nói: “Tôi chỉ muốn xem gần đây võ công của Lý Sư có tiến bộ không thôi”.
Minh Châu liếc xéo hắn, tự đi dọn dẹp chén trà.
Tịch Tà dặn đi dặn lại Lý Sư và Thẩm Phi Phi, bảo bọn họ không được ở am Tịnh Thủy nữa, lúc bấy mời chia tay về cung.

Hôm sau Minh Châu theo Khương Phóng đến Thượng Giang, Tịch Tà sai Tiểu Thuận Tử thu dọn hành lý kỹ càng, chỉ chờ ý chỉ đến là khởi hành.

Ai ngờ đợi hai ngày, đến chạng vạng ngày thứ ba mới nhận được khẩu dụ của hoàng đế.


Thì ra lúc ấy hoàng đế không ở hành cung Thượng Giang, sau khi dẫn thị vệ đi bao vât thì săn bắn ở phía tây, nơi đó cách Thượng Giang nửa ngày đường.

Tịch Tà sợ đi suốt đêm sẽ gặp Lôi Kỳ Phong đánh lén nên dù chuyện khẩn cấp cũng chỉ có thể đợi thêm một đêm.
Hửng sáng hôm sau, hắn gặp Úc Tri Thu ở cửa Tử Nam, thấy vẻ mặt gã hồng hào.

Người đeo cung lớn, quả là phong thái hiên ngang oai hùng.

Hắn khen tốt trong lòng nhưng trước mặt mọi người vẫn chỉ chắp tay lạnh nhạt.

Giục ngựa đến bên thành Ly đô thì vừa lúc cửa Nhạc phía tây mở rộng, vung roi ngựa lên, hai thớt ngựa giỏi chạy lên đường cái, đi thẳng về hướng tây.
Tịch Tà hết sức cẩn thận, dọc đường không thấy bóng dáng Lôi Kỳ Phong đâu, đến tận hành cung Thượng Gian vẫn bình an vô sự, hai người thay ngựa tiếp tục phi nước đại.

May mà lúc này có ít mây nên tránh được mặt trời nóng như thiêu như đốt đổ xuống đầu.

Lúc thoáng thấy một vùng nóc cung điện đi săn dưới bầu trời xanh thẳm thì có một thớt ngựa giỏi đến đón ở đối diện.

Hồ Nguyệt Động hô: “Hoàng thượng đang thả câu, hai vị hãy tới bờ sông nói chuyện”.
Trên bờ sông có một chiếc bè trúc đang trôi, hoàng đế đeo nón che nắng, cầm cần câu mệt mỏi muốn ngủ.

Khương Phóng đeo đao đứng ở bên đề phòng.

Tịch Tà và Úc Tri Thu dậpp đầu thỉnh an ở trên bờ.

Hoàng đế quay người lại cười nói: Các khanh lớn tiếng như vậy, cá đều bị dọa bơi đi mất rồi.

Tịch Tà, khanh lên đây”.
Thị vệ định dựng ván cầu.

Tịch Tà xua tay, vén góc áo, nhẹ nhàng nhảy lên bè trúc.

Bọn thị vệ thấy hắn bay như tiên thì đều không kiềm được khen hay.
Hoàng thượng cười nói: “Chiêu thức ấy của khanh thật là đẹp”.
“Vạn tuế gia có thu hoạch chưa ạ?”
Hoàng đế lắc đầu: “Có lẽ trầm trời sinh không giỏi đạo này, bận rộn cả ngày cũng không câu được một con, nếu không đã thưởng một con cho khanh rồi”.
“Mặc dù không có cá, nô tỳ vẫn phải tạ ơn hoàng thượng”.

Tịch Tà cười, ánh mắt chiếu lên mặt sống.

Nước sông phải chiếu núi xanh hai bên bờ, yên ả không gợn sóng, mặt trời gay gắt chợt lộ ra ánh sáng rực rỡ từ sau mây, rọi lấp lánh mặt nước.

Tịch Tà nhìn đáy nước không nổi một gợn sóng, ánh sáng vàng trong mắt nhanh chóng rút đi.
“Khanh vội lên đây là để báo chuyện gì?” Hoàng đế đưa cần câu cho Khương Phóng, lại nghe Tịch Tà cười gằn ở sau lưng, tay áo trước mắt khẽ động, thanh đao của Khương Phóng “keng” một tiếng ra khỏi vỏ, chém vào không trung, bè trúc bị Tịch Tà chắn ngang vỡ thành hai đoạn.

Một bóng người màu xanh đột nhiên nhảy vọt ra từ trong nước, thế kiếm nhanh vô cùng, như có ánh sáng nhằm thẳng vào yết hầu Tịch Tà.
Bè trúc dưới chân Tịch Tà bỗng nhiên phát lực như gió táp, chấn động đến mức một nửa mà hoàng đế và Khương Phóng đang đứng xông thẳng lên bờ.

Trong chốc lát thân đao bảo vệ cơ thể, đã tóe ea vết sương bốc hơi.
“Keng!”
Mũi kiếm của Lôi Kỳ Phong đâm lên sống đao, một kích bị trượt song thế lui vẫn như tên, bắn về giữa không trung.

Bè trúc đột nhiên chấn động đến nát vụn.

Tịch tà vút lên theo, vung ngang đao đến ngực Lôi Kỳ Phong, khí trắng tản ra trong lưỡi đao bị ánh mặt trời chiếu ra một cái cầu vồng lóa mắt.

Sát khí khắp người Lôi Kỳ Phong tụ tới mũi kiếm, ra sức đâm vào đỉnh cầu vồng.
Mặt nước vang ầm ầm, dấy lên một cơn sóng vọt lên bờ sông, ngựa chiến dưới gốc liễu xao động không yên, lớn tiếng hí.

Úc Tri Thu phản ứng nhanh nhất, đã tháo cung lớn, lọ tên xuống khỏi ngựa, vọt tới sống giương cung lắp tên.

Hai bóng màu xanh trong vòng chiến hết hợp lại phân, xoay tít, rơi xuống giữa sông như ưng lớn.

Úc Tri Thu nhắm chuẩn Lôi Kỳ Phong mặc áo ngắn, cầm kiếm, thét to một tiếng hai mũi lông đen cùng rời dây, nhắm vào giữa lưng Lôi Kỳ Phong.
Tịch Tà thấy rõ ràng, lạnh lùng nói một tiếng “nhiều chuyện”, vọt đến sau người Lô Kỳ Phong, dùng ngón tay chọc nhanh, hai mũi tên đều bị hắn đánh bay.

Trong vẻ mặt bi thảm của Lôi Kỳ Phong thoáng có nụ cười kinh ngạc, thế kiếm vốn đâm vào sau lưng Tịch Tà giảm nhẹ đi, chỉ đâm rách góc áo của hắn.

Ánh nước đâm vào mắt, y lập tức nín thở, cùng rơi xuống nước với Tịch Tà.
Nước sông yên ả, không dậy sóng, mọi người trên bờ bị trận đấu ác liệt vừa rồi làm cho hồn xiêu phách lạc, cứ trợn mắt mà nhìn.

Khương Phóng quát to: “Ngây ra đấy làm gì? Hộ giá!”.
“Hộ giá! Hộ giá!” Đám Hồ Động Nguyệt cao giọng thét to.
“Lên thuyền, xuống sông”.

Khương Phóng vội đến mức giậm chân: “Kẻ nên bắt thì bắt, nên cứu thì cứu!”.
Hoàng đế nhìn chằm chằm nước sông, mồ hôi lạnh ướt áo, hung dữ nói: “Tịch Tà không về được thì các người cũng đừng sống nữa”.
Đám thị vệ nhìn nhau, lau mồ hôi thưa: “Vâng”.
Ngoài nửa dặm đột nhiên rào rào tiếng nước, nước sông như sôi, một bóng người bay vọt lên trời, vụt trên không trung rồi lại rơi xuống.
“Đó là ai?”
Khương phóng lắc đầu: “Thần không thấy rõ, giờ sẽ đến hạ du tìm ạ”.

Đoạn gọi mấy người phóng người lên ngựa, chạy dọc theo sông nhưng không thấy có ai nổi lên mặt nước cả.
Khương Phóng quay lại bàn mấy câu với hoàng đế, đều cảm thấy không thể quấy nhiễu người trong hành cung, chỉ e thái hậu và Hạ Dã Niên được tin thì sẽ tìm thấy Tịch Tà trước, lúc bị thương nặng thì dù một tên võ phu tầm thường cũng có thể lấy mạng hắn.

Trong lúc lòng nóng như lửa đốt lại nghĩ ra một kế, sai người về hành cung cho đòi Thành thân vương cùng người hầu tùy tòng lấy danh nghĩa đi săn cùng để chạy tới cung săn.

Sau khi tụ lại một chỗ thì tản người ngựa ra lục soát cẩn thận dọc theo hai bờ sông, đến tối vẫn bặt vô âm tín.
Bên cạnh hoàng đế chỉ có Úc Tri Thu, càng ngày càng gấn hành cung.

Úc Tri Tru thính tai lanh mắt, nghe thấy trong bụi cây trước mặt có tiếng động thì quát: “Kẻ nào?”.
Hoàng đế thúc ngựa nhảy lên, quả nhiên thấy một người nằm ngửa trên cỏ, vạt áo buông tuồng, da thịt trắng nõn trông như băng tuyết dưới ánh trăng.
“Tịch tà!” Hoàng đế kinh ngạc kêu lên, nhảy xuống ngựa chạy đến, bị Úc Tri Thu kéo lại.
“Để thần xem trước ạ”.

Úc Tri Thu chỉ e là thích khách, bước đến gần mấy bước rồi nói: “Quản đúng là Tịch Tà”.

Gã đưa tay định đỡ, mới chạm vào thân thể hắn, chợt rụt tay lại.
“Sao thế?”
“Lạnh như băng ạ…” Úc Tri Thu hãi nói.
Hoàng đế vội đi tới, đẩy Úc Tri Thu ra và ôm lấy người Tịch Tà, không khỏi rùng mình: “Chết rồi ư?” Bỗng chốc trước mắt trắng xóa, hồi lâu mới thấy Úc Tri Thu dùng sức lắc người mình.
“Vạn tuế gia, vạn tuế gia, còn thở ạ”.
“Thật không?” Hoàng đế thăm hơi thỏe của Tịch Tà, so với sắc mặt trắch bệch vừa rồi thì Tịch Tà đã hồng hào hơn, hắn ta mới phì cười một tiếng, “Dìu hắn lên ngựa của trẫm”.
“Vâng”.

Úc Tri Thu cởi áo ngoài của mình ra, bọc lên người Tịch Tà, cách một lớp quần áo nhưng vần thấy lạnh thấu xương, rùng mình mấy cái liền.
Hoàng đế đón Tịch Tà lên yên ngựa, nói: “Khanh tức tốc liên lạc với những người khác, nói là đã tìm thấy rồi”.
Úc Tri Thu vâng dạ, nhặt hết đồ của Tịch Tà ở dưới đất lên rồi phóng người lên ngựa mà đi.
Hoàng đế chỉ thấy người Tịch Tà càng ngày càng lạnh, vội vàng cởi áo ngoài che kín hắn ở trước ngực.

Cơn lạnh lập tức toán loạn khắp xương cốt như thể bị núi băng đè, hắn ta kêu “a” một tiếng, hơi rụt về sau, nhưng cúi đầu thấy vẻ đau đớn trên mặt Tịch Tà, cắn răng chịu đau thì không đành lòng, ôm chặt hắn vào trong lòng mình.

Lúc bấy hoàng đế mới biết cái gì gọi là một ngày mà như một năm, thời gian cứ chậm rãi trôi qua như sông lớn, nhiệt độ cơ thể mình bị Tịch Tà tham lam rút đi mãnh liệt, cả người co rụt lại một chỗ, cóng đến mức xương cốt phát đau, khớp hàm lập cập.

Chợt nghe Tịch Tà thở một hơi dài, khẽ nhúc nhích.
“Khá hơn chưa?” Hoàng đế mừng nói.
Tịch Tà gặp ánh mắt hoàng đế thì hình như có vẻ nghi hoặc chấn động, chân tay đột nhiên giãy giụa.
Môi hoàng đế tái nhợt, rùng mình, cười to nói: “Chớ nhúc nhích, lát nữa Khương Phóng tới rồi nói sau”.
Lúc này hai người cùng ngồi một ngựa, chậm rãi trở về hành cung.

Trong rừng, côn trùng mùa hạ kêu ran cùng tiếng nước, mang đến cảm giác thanh thản.
“Lúc thấy khanh, trẫm cứ tưởng khanh đã chết rồi”.

Dường như hoàng đế vẫn đang trong cơn kinh hoàng, nhìn thấy khuôn mặt trắng ngần của Tịch Tà cố gắng nở nụ cười giễu cợt thì không khỏi ngây ra, ngẩng đầu trông về phương xa, cười bảo: “Có thể cưỡi cùng một ngựa với hoàng đế là chuyện hiếm có.


Cảnh Nghi chỉ được ngồi trước ngựa trẫm trước lúc mười tuổi thôi, mà cũng là ở Thượng Giang, chạy mệt rồi, còn đòi trẫm bế nó xuống ngựa”.

Hắn ta thản nhiên nhìn rừng cây sông lớn xung quanh: “Giờ cũng chẳng còn nữa”.
Trăng rằm ngâm dưới sông, vảy bạc cuồn cuộn trên mặt sông, gió mát lượn vòng, ánh mắt Tịch Tà cũng dần trở nên sâu xa.

Trên thảo nguyên vào mùa hè không lo của mười năm trước, ngựa của Nhan vương phi như sấm đánh, cờ xí đỏ tươi cuồn cuộn, liếc mắt không thấy bến bờ.

Nhan Lâu ngồi ở trước ngựa cha anh, cũng có lúc buồn ngủ như bây giờ, cuộn mình vào trong lòng cha anh, có phải cũng bình yên dễ chịu như trong chớp mắt này không? Thời gian đó, giờ cũng chẳng còn nữa.

Tịch Tà nhìn chiếc cằm đẹp đẽ như được đẽo gọt của hoàng đế, chỉ thấy sự ấm áp mà hoàng đế truyền tới thậm chí còn mang theo cảm xúc hầm hập, chảy xiết trong dòng máu mình, không nén được mà bật thốt lên: “Hoàng thượng!”.
“Khương Phóng tới rồi!” Hình như hoàng đế không nghe thấy, giương mắt lên nói.
“Vạn tuế gia!” Ngựa của Úc Tri Thu dẫn đầu đi đến, y ghìm chặt ngựa tâu: “Thị vệ mang ra ngoài đều đã đến rồi ạ”.
Hoàng đế nói: “Tốt, khanh truyền chỉ bảo họ không được tới gần, chỉ cần Khương Phóng tới thôi”.
Tịch Tà sờ thấy sao bào thị vệ đắp trên người mình thì gắng gượng đưa tay trả lại cho Úc Tri Thu: “Đa tạ”.
Úc Tri Thu giao quần áo màu xanh trong cung đang vắt trên ngựa vào tay Tịch Tà, cười nói: “Bảo trọng”.

Gã vừa định đi, đột nhiên nói: “Quên mất, đây cũng là đồ của công công”.

Đoạn lấy ra một con dấu nho nhỏ từ trong ngực.
Tịch Tà cầm lấy dây lụa màu sắc trên ấn vàng, lặng lẽ nhét vào hông cùng tấm biển gỗ.
“Gì đó?” Hoàng đế còn hỏi một câu.
“Con dấu thu mua ở hai cục của nô tỳ ạ”.
“Sao vẫn chưa giao lại à?”
“Vốn là sắp xong rồi nhưng có chuyện quan trọng, nô tỳ vội bẩm báo mới đến Thượng Giang trước”.
Hoàng đế quờ lấy hông Tịch Tà rồi đặt hắn xuống đất, hai tay vẫn cóng đến run rẩy, nói: “Bất kể là chuyện khẩn cấp gì, ngày mai hãy nói”.
Tuy nguyên khí đã dần hồi phục nhưng Tịch Tà vẫn cảm thấy mệt nhọc nên bằng lòng: “Vâng”.
Khương Phóng đã phi ngựa chạy đến, đang định xuống thỉnh an thì bị hoàng đế giơ tay cản lại: “Trẫm về trước.

Trời đã rối rồi, ngày mai hẵng điều binh lục soát thích khách.

Các khanh cứ thong thả, cẩn thận đấy”.

Ngựa tốt chồm lên, bọn thị vệ hét lớn gọi nhau phía xa, lửa đuốc lụi dần, chạy ra xa dọc theo bờ sông.
Tịch Tà mặc quần áo trong cung vẫn còn hơi ẩm ướt lên người, cười nói: “Nguy hiểm thật! Tuy là đã đánh bay Lôi Kỳ Phong ra khỏi nước nhưng không ngờ chưởng lực của y cũng rất lợi hại, lại đánh nát nội tức của ta, suýt nữa làm tổn thương kinh mạch ta vì lạnh”.
Khương Phóng trầm mặt nói: “Tôi ở bên cạnh, ngay cả Úc Tri Thu cũng bắn cung giúp đỡ, sao chủ nhân vẫn mạo hiểm một mình? Lần tới lại đùa với lửa như thế, cẩn thận tôi không bằng lòng đâu”.
“Phải phải phải, lần sau không dám nữa”.

Tịch Tà gật đầu lia lịa.
Khương Phóng không phải là kẻ hay lải nhải, nổi tính lính, không kiềm được hỏi: “Cuối cùng hai người thắng bại thế nào? Lôi Kỳ Phong đã chết chưa?”
“Chắc là chưa”.

Tịch Tà đón lấy ánh sáng dập dềnh trên sông mà mỉm cười: “Nhưng giờ y cũng đau đớn không thua gì ta”.

Hắn vận chuyển nổi tức một lần, ngạc nhiên nói: “Không ngờ trong cái rủi lại có cái may, sau khi nội tức tụ lại lần nữa, hình như còn dồi dào hơn trước”.
Khương Phóng cười rằng: “Chủ nhân thôi ngay đi, cho dù võ công có cao hơn gấp chục lần cũng không đáng để mạo hiểm.

Cứ chờ lúc về nghe Minh Châu mắng một trận đi”.
Tịch Tà lấy con dấu ra từ bên hông, nương theo ánh trăng mà nhìn rồi đưa cho Khương Phóng: “Lén đặt cái này ở trong cung Thành Thân vương”.
Khương Phóng nhận vào tay, ngạc nhiên nói: “Sao vậy?”.
Tịch Tà nói với vẻ mặt u ám: “Không sao cả, anh chớ hỏi nhiều”.

Cơn buồn ngủ dâng lên, cảm thấy hết hơi hết sức, về đến hành cung, vừa ngả đầu đã ngủ mất.
Nếu không có người vén rèm đi vào trong nhòm thì Tịch Tà vẫn sẽ ngủ mê mệt không tỉnh.

Hắn thấy kẻ nọ xoay người định đi thì vội vàng ngồi dậy gọi: “Nhị sư ca”.
“Tỉnh rồi à?” Như Ý cười nói: “Tội lỗi, trách anh trách anh, nếu không em còn có thể ngủ thêm một lát nữa”.
“Nhị sư ca tới từ chỗ hoàng thượng à?”
“Đúng thế, hoàng thượng sai anh tới xem em đã khá hơn chưa.

Nói là nếu vẫn nghỉ ngơi thì đừng quấy rầy”.
Tịch Tà búi tóc lên, ho mấy tiếng, mới đi mấy bước đã thấy cả người bủn rủn.

Hắn rót chén trà cho Như Ý rồi hỏi: “Bắt đầu lục soát thích khách rồi ạ?”.
Như Ý thở dài: “Hôm qua đã lục soát cả ngày, sống không thấy người, chết không thấy xác.

Vì chuyện này mà hoàng thượng còn khiển trách Hạ Dã Niên và Khương Phóng một trận đấy…”.
“Cả một ngày? Đợi đã…” Tịch Tà đặt chén trà xuống: “Hôm nay là…”.
“Hai mươi tám”.

Như Ý cười nói: “Em không biết mình đã ngủ một ngày một đêm rồi à? Anh, đại sư ca và Minh Châu thay phiên tới gọi cũng chẳng thấy em nhúc nhích, nếu không phải đại sư ca nói không sao thì anh đã đưa tang cho em rồi.

Ôi, em đi đâu đấy?”.
Tịch Tà tìm cung y khoác lên người xong thì đi ra bên ngoài: “Nhỡ việc rồi! Hoàng thượng ngự giá ở đâu thế ạ?”.
“Đang ở các Ỷ Hải, Lưu Viễn và Ông Trực dẫn theo vài đại tướng bộ binh mới từ trong kinh tới, giờ em đi e sẽ đụng phải đấy”.
“Em đang cần việc này đây”.

Tịch Tà rảo bước lên phía trước, bị Ngư Ý đuổi theo kéo lại: “Cả ngày chưa cơm nước gì, em còn chạy đi đâu nữa? Anh xin em hãy từ từ, có được không?”.
Bấy giờ Tịch Tà mới thấy đầu váng mắt hoa, mây đen mù mịt trên đỉnh đầu, càng oi bức đến mức khó chịu.

Như Ý kéo hắn ngồi xuống dưới hiên điện chếch của các Ỷ Hải rồi bưng ít bánh trái và trà ấm ra từ trong phòng, nói: “Em lót dạ trước đã, anh vào thông báo”.
Tịch Tà đói đến cồn cào ruột gan, lại sợ hoàng đế cho đòi ngay nên ăn rất vội, bị kẹp râu rồng dính đường làm cho sặc đến ho ra tiếng.

Trong điện chếch có người phì cười, nói: “Chủ nhân, người xem lối ăn của tên thái giám nhỏ này đi, nhất định là một tên nô tài ăn vụng”.
Tịch Tà mới biết bên trong có ngọc giá của hoàng phi, vội đứng lên tránh đi thì rèm châu lách cách, một cung nữ mười lăm mười sáu tuổi bưng cái khay đi ra gọi: “Anh chờ một lát, nương nương thưởng cháo cho anh ăn này”.
Tịch Tà nhận bằng hai tay, trong bát là cháo hạt sen táo đỏ thơm phức, biết là thức ăn của hoàng đế.

Trong lúc hắn ngẩn ngơ, cung nữ kia đã cười bảo: “Đừng dập đầu làm nương nương không vui”.
“Vâng”.

Tịch Tà nhìn nàng uốn người vén rèm đi vào, trong phòng bỗng sáng lên, thiếu nữ vận áo sa màu trắng ngồi trên ghế tựa vô cùng đẹp mắt, chính là Hòa thục nghi Mộ Từ Tư.

Tịch Tà ngây ra một lát thì nghe thấy Như Ý nói: “Em sáu, hoàng thượng gọi em đấy”.
“Vâng”.
Như Ý cười nói: “Không vội không vội, bát cháo này thật đúng lúc, uống xong hẵng đi”.
Tịch Tà vội vã ăn xong thì vào dập đầu thỉnh an.
Hoàng đế gật đầu với Cát Tường, Cát Tường tuyên: “Tịch Tà có công hộ giá, thăng hàng lục phẩm, hầu vua ở cung Càn Thanh, thưởng đai ngọc.

Đặc biệt ban kiếm đi lại trước mặt vua”.
Đây là vinh dự ít có, song nghĩ tới người Lôi Kỳ Phong hành thích không phải hoàng đế thì Tịch Tà không biết nên khóc hay cười, miệng nói tạ ơn rồi nhận lấy đai ngọc và kiếm ban, quả nhiên là kiếm Tĩnh Nhân hai năm không thấy.

Hắn dập đầu xong đứng dậy, Thành Thân vương và Ông Trực bên cjanh đều mỉm cười với hắn, chỉ có Lưu Viễn vẫn tái xanh mặt mày, dán mắt nhìn thẳng xuống đất.
Ông Trực cười nói: “Thì ra người hộ giá hôm kia là Tịch Tà, võ công cao cường thế thảo nào ngày đó hoàng thượng lại gửi gắm trọng trách thay mặt chọn tiến sĩ.

Thần mắt mờ không nhìn ra được, suy cho cùng vẫn là hoàng thượng giỏi dùng người, quả thực là vị vua thánh minh”.
Hoàng đế cười, Ông Trực lại bảo: “Quả nhiên hoàng thượng thiện lành ắt có trời giúp, chư thần phù hộ.

Quân Thành đó đã bị trọng thương, khó có dã tâm ngấp nghé trung nguyên được nữa, tai nạn binh nhung này vì thế mà bị tiêu trừ, hoàng thượng đại hỉ rồi”.
Hoàng đế lắc đầu nói: “Nhất thiết không được lơ là như thế, phen này ông ta trọng thương, tuy mấy năm nữa không thể xuôi nam nhưng khó đảm bảo ông ta sẽ không ngóc đầu trở lại, bộ binh vẫn phải làm việc cẩn thận”.
“Xin hoàng thượng thứ cho nô tỳ lớn mật vượt quá giới hạn.

Nô tỳ có lời muốn nói”.

Tịch Tà tiến lên một bước nói.
Dù đám người Ông Trực đã biết Tịch Tà tham mưu ở bên hoàng đế nhưng chưa từng nghe hắn nói thẳng vào việc chính trị trước mặt mọi người nên đầu ngớ ra.
Hoàng đế lại không hề khó chịu, híp mắt cười: “Tịch Tà, khanh biết đang bàn chuyện gì ở đây không?”
Tịch Tà khom người nói: “Quân Thành ạ”.


Hắn thấy hoàng thượng gật đầu thì nói tiếp: “Theo ý kiến ngu dốt của nô tỳ, Quân Thành bị trong thương ở trận Hạ Lý Luân, chẳng những sẽ không tạm hoãn chiến tranh phương bắc mà ngược lại trận đại chiến Hung Nô này sẽ càng sớm hơn”.
Có thể nói lời ấy làm bốn bề đều kinh ngạc, Ông Trực ngơ ngác, đột nhiên cất tiếng cười, nói: “Xin nghe cao kiến”.
Tịch Tà thong thả nói: “Hai mươi lăm năm trước, Quân Thành vẫn còn là thủ lĩnh của nước Khuất Xạ, hãy chưa xưng đế.

Những năm đầu Thượng Nguyên, Hung Nô đến bái yết, ông ta từng theo thiền vu Y Thứ Quyết đến trung nguyên.

Lúc bấy đại phu[2] chùa Hồng Lư đến dịch quán Hung Nô, hỏi Quân Thành ăn uống ngủ nghỉ có chu đáo không.

Quân Thành nhìn ra cung Thanh Hòa phía xa cười không đáp.

Khi ấy Quân Thành mới chỉ hai mươi tám tuổi, đã có hùng tâm xưng đế ở trung nguyên, mấy năm nay ông ta chiếm đoạt đại nguyên, đã có đại quân, chỉ e suy nghĩ này càng hừng hực”.
Lưu Viễn mới bảo: “Quan sử có chép việc ấy, Nước non Trung Hoa như tranh, sản vật phì nhiêu, chuyến đến trung nguyên tất đã dấy lên lòng dạ lang sói của ông ta”.
Tịch Tà nói: “Trước giờ Hung Nô do các nước liên minh lại, đến hai mươi năm của ông ta, tộc Khuất Xạ chinh phạt thảo nguyên, các bộ lạc quy về dưới sự điều khiển của ông ta.

Ông ta mơ giấc mộng hoàng đế bấy nhiêu năm, gót sắt không đạp lên trung nguyên thì e ông ta chết không nhắm mắt”.
Ông Trực cười rằng: “Tiếc là ông ta trọng thương chưa lành, sao dẫn binh xuôi nam được?”.
“Việc này năm mươi năm mươi.

Hạ Lý Luân mà Quân Thành nuốt lần này chính là nước lớn phía bắc Hung Nô, vốn cần an ủi đàn áp mấy năm.

Đợi ông ta dẹp yên trong nước thì chừng ba, bốn năm sau mới có thể xuôi nam.

Ông ta co hai trăm nghìn binh mã cường tráng, lại không có nỗi lo về sau, sợ rằng đến lúc đó sẽ là một cuộc ác chiến.

Nếu Quân Thành trọng thương không chữa khỏi mà chết, Hạ Lý Luân tất sẽ làm phản, Hung Nô nội đấu làm tiêu hao sẽ là chuyện không thể tốt hơn với trung nguyên ta, chỉ cần hoàng thượng sai mấy chục nghìn phiêu kỵ thừa dịp chúng nội loạn mà đuổi sạch thì chắc chắn biên giới phía bắc sẽ được thái bình ba, bốn mươi năm.

Nhưng thể lực Quân Thành khỏe mạnh, truyền rằng lẫm liệt, oai như thiên thần, tuy nghe ông ta bị thương cực kỳ nghiêm trọng cũng có khả năng sẽ khỏi hẳn sau một thời gian”.

Tịch Tà lắc đầu cười: “Quân Thành tự lượng sức mình, nói cho cùng thì đã năm mươi hai tuổi đầu rồi, biết chịu vết thương nặng này rồi thì cái chết sắp đến, không chịu nổi một hai năm.

Đợi vết thương hơi bình phục thì chắc chắn ông ta sẽ muốn thực hiện gấp tâm nguyện, thời hạn xuôi nam sẽ tới sớm là năm sau”.
Hoàng đế hơi trầm sắc mặt, hỏi: “Năm sau?”.
Tịch Tà tâu: “Thế đến của ông ta hung mãnh, vội vã, nô tỳ thấy đây là thời cơ tốt nhất để đại phá Hung Nô”.
Ông Trực vỗ tay, nói: “Không sai, nếu năm sau ông ta xâm phạm, trong nước chưa yên, bản thân lại bị thương nặng thì vừa hay để chúng ta thừa cơ”.
“Cho nên vận mệnh biên giới phía bắc của trung nguyên được quyết định hoàn toàn bởi thương thế của Quân Thành ra sao”.
Hoàng đế bèn hỏi: “Chẳng lẽ bây giờ không thể thừa dịp ông ta chưa ổn định được toàn cục mà tăng binh ở Nhạn môn, Xuất Vân để đập tan ông ta bằng một kích ư?”.
Ông Trực tỏ vẻ khó xử, liếc nhìn Lưu Viễn.

Lưu Viễn chỉ đành nói: “Ý của hoàng thượng nhằm trúng chỗ hiểm của Hung Nô nhưng hiện tại triều đình không binh không lương, Quân Thành lại co đầu rụt cổ ở Hạ Lý Luân nơi cực bắc, đại quân triều đình phải chạy băng băng ngoài ngàn dặm, không chuyển được lương thảo tới sẽ mất toi mấy chục nghìn tinh binh”.
Lần này lại chọc vào chỗ đau của hoàng đế, hắn ta nắm chén trà nhìn một lúc, đột nhiên cười nói: “Biết rồi, là do trẫm nghĩ không thấu đáo.

Lương Vương có rất nhiều tai mắt ở trong đất Hung Nô, Ông khanh và Lương vương cứ ba ngày là phải báo lại tình hình gần đây của Quân Thành một lần để trẫm biết.

Trong chuyện quân bị, vì sắp xảy ra chiến tranh nên trưng binh trưng lương vô cùng khẩn cấp, các vị tức khắc về kinh, cùng với nội các, bộ lại mau mau viết tấu dâng lên, trẫm về kinh là phải trông thấy”.
Thành thân vương nói: “Thần cũng sẽ về kinh”.
Hoàng đế lắc đầu: “Em ở lại bên trẫm để có người bàn bạc mọi chuyện”.
Sau khi chúng thần lui ra, hoàng đế đứng dậy đi qua đi lại: “Ông ta có hai vạn binh mã mà quân chấn bắc của trẫm chỉ có mười hai vạn, lại thêm quốc khố trỗng rỗng, xem không có ý định với đất phiên thì không thành rồi”.

Hắn ta nhìn Tịch Tà nói: “Nhưng sứ trưng lương mới về chưa được hai tháng lại sai đi thì đám phiên vương sẽ không chịu để yên đâu”.
Tịch Tà thưa: “Lo lắng của vạn tuế gia rất đúng, sự việc liên quan đến sống chết tồn vong của triều đình phải nghĩ ra kế sách vẹn toàn”.
“Binh mã kinh kỳ còn có gần mười vạn, đều ở trong tay thái hậu, do Trịnh Quân Hải ở Cứ châu thao túng chặt chẽ.

Nếu ngay cả lộ nhân mã này cũng phải triệu tập, đến lúc đó cửa mở rộng, há chẳng để Đông vương thừa cơ mà vào ư? Lại có người Miêu, loạn trong giặc ngoài thì vận mệnh triều ta…” Hoàng đế chậm rãi ngồi xuống ghế tựa, nhíu mày suy nghĩ.

Cát Tường vội vàng đưa mắt ra hiệu cho Tịch Tà, Tịch Tà cười, không nói không rằng.

Một trận sấm rền cuốn qua, xung quanh không gió, ngột ngạt đến mức thở cũng khó khăn.

Hoàng đế đột ngột đứng phắt dậy, lớn tiếng quát to: “Đi vây lại!”.
“Ôi?” Cát Tường sợ hết hồn, theo hắn ta ra khỏi phòng.
Hoàng đế nhìn mây sét đầy trời, cười bảo: “Kẻ địch mạnh nhìn trung nguyên thèm thuồng, vua chẳng còn ngày được yên gối nữa.

Đây có lẽ là mùa hè không lo cuối cùng của trẫm rồi, cớ sao phải mặt ủ mày chau? Gọi Hòa thục ra đây đi cùng với trẫm”.
Mộ Từ Từ bước ra từ trong điện chếch, còn chói lóa hơn cả tia chớp.

Mưa to gõ đồm độp vào chuối tây trong đình viện tựa như tiếng gót sắt.

“Mưa rồi”.

Nàng cười nói với hoàng đế, “Hoàng thượng vẫn đi ạ?”.
“Mưa rào có sấm chớp” Tịch Tà nhẹ nhàng nói bên cạnh hoàng đế: “thì sẽ không kéo dài lâu”.
Khương Phóng đang dẫn thị vệ lúc soát rừng rậm, thấy thế mưa không dừng thì lệnh cho mọi người tìm nơi tránh mưa.

Úc Tri Thu mới đến Thượng Giang lần đầu, đến được chỗ có vật che chắn thì các thị vệ nguyên lão đã đứng đầy cả rồi.

Gã ngẩng đầu trông thấy căn đình trắng trong núi bèn giục ngựa chạy đi.

Không ngờ bên trong cũng có năm, sáu người đang trú, tất cả đều mặc đồ thị vệ, thấy gã xuống ngựa tiến đến thì lại hoảng loạn, co vào một góc ríu ra ríu rít cười một lúc.

Một người trong đó tiến lên trước nói: “Này, tôi bảo này, anh không thấy nơi này toàn là người đang chen chúc hay sao, anh tìm chỗ khác trú mưa đi”.
Úc Tri Thu ngây ra, nói: “Tôi thấy vẫn ổn mà, đều là người hầu giống nhau, các anh không thể vô lý được”.
Mấy người kia đều cười ồ lên, tiếng cười lanh lảnh vui tai, trái lại làm Úc Tri Thu đỏ cả mặt.

“Nghe các người nói kìa, chẳng giống thị vệ gì cả, lẽ nào là công công trong cung mặc quần áo thị vệ đi ra săn trộm à?”
Người nói đầu tiên phỉ nhổ: “Công công gì chứ? Anh cẩn thận…”.
“Nói nhiều với anh ta làm gì?” Một người trong đám đông nói: “Nếu đã có chỗ thì cứ để anh ta trú một lúc cũng chả sao”.
“Vâng”.

Người kia khẽ mỉm cười quay người đi về.
Úc Tri Thu ôm quyền cười nói với thị vệ trẻ giải vây cho: “Đa tạ”.
Khuôn mặt trắng ngần của người nọ bỗng hây hây, quay đầu không đáp.

Úc Tri Thu hơi ngượng nghịu, dùng tay áo lau nước mưa trên mặt, nghe họ thấp giọng bàn tán xì xào, không tập trung nhìn ra chung quanh phía xa xa.

Mưa như trút nước bay lả tả vào sông, khói trắng cuồn cuộn ở trên mặt nước, núi xanh bên bờ cũng tô sắc sẫm, cơn gió mạnh cuốn đi sự nóng nực kéo dài vô hạn làm lòng dạ người ta khoan khoái nhẹ nhàng.
Đột nhiên có người than thở trong bụi cây: “Trận mưa này thật là đúng lúc, nếu không tôi nóng đến chết rồi, quả đúng là: Trời tốt, mưa lành tới[3]…”.
Mấy người trong đình không khỏi cười vang, quả nhiên nghe hắn nói tiếp: “Đang xuân, đang…”.
Bên cạnh còn có một kẻ góp vui, nghiêm túc hỏi: “‘Đang xuân đang’ rồi sao nữa?”.
Ngay cả Úc Tri Thu cũng cười, cành cây vang lên “xào xạc”, hai thanh niên mặc quần áo của dân đen chui ra, một người trong đó giắt kiếm bên hông.

Đám người Úc Tri Thu đều kinh hãi, mấy người vốn ở trong đình kinh ngạc kêu lên, lui về phía sau.
Úc Tri Thu không dám thờ ơ, đi ra bên ngoài đình, rút kiếm ra, cao giọng quát: “Nơi này là đất cấm của hoàng gia.

Các anh là ai?”.
Thanh niên dẫn đầu áo hoa tóc dầu, bị ướt nước nên càng sáng bóng đến mức có thể soi gương, gã cười hì hì nói với người đàn ông khôi ngô phía sau: “Nghe thấy chưa? Đất cấm của hoàng gia đấy, xem anh còn nói tôi không biết đường không?”.
“Ha ha, trách oan anh rồi”.

Tiếng người này sang sảng, không có suy nghĩ mờ ám nào, cười nói: “Hay là hỏi thăm người này đi”.
Thanh niên áo hoa lắc đầu rằng: “Vô dụng vô dụng, người này là thị vệ, chắc gì đã biết.

Nhưng mấy người phía sau đều là các cô nương giả trang, quả thực là người trong nội cung, hỏi họ thì sẽ chính xác”.

Nói rồi ánh mắt phát sáng, nhìn chằm chằm về phía thiếu niên thị vệ giải vây thay Úc Tri Thu.

Lời vừa nói ra, Úc Tri Thu vô cùng kinh ngạc, cũng quay đầu nhìn thoáng qua.
Lập tức có người đứng ra ngăn cản, quát lên: “Lớn mật, nhìn cái gì?”.
Úc Tri Thu sợ hai người này là thích khách, không nói thêm lời nào, đột ngột đâm trường kiếm ra, chỉ nói: “Xem kiếm đây!”.
Chàng trai áo hoa cười nói: “Thì ra là xem kiếm.” Thân hình lắc một cái, người đã phi lên trên nóc lợp từ lưu ly của cái đình trắng, đứng độc một chân, đón gió tung bay, thân pháp tuyệt vời.

Mọi người trong đình sợ đến mức thét chói tai, chen chúc ở phía sau Úc Tri Thu.

Úc Tri Thu biết võ công của đối thủ cao cường thì thầm kinh hãi, lui lại mấy bước che chở mấy thị vệ nữ giả nam trang, thấp giọng nói: “Các cô có thể đánh nhau không?”.
Một người run cầm cập nói: “Không thể”.
“Vậy còn không mau chạy?”
“Vâng, tướng quân hãy tự giải quyết cho tốt”.

Nàng đang định vắt chân lên cổ mà chạy thì chàng trai trên đình nhẹ nhàng nhảy xuống, đưa tay ngăn lại.
Chàng trai khôi ngô kia quát lên: “Này, anh lại ngựa quen đường cũ đấy à? Bắt nạt con gái thì cẩn thận tôi thọc anh một kiếm trước đấy”.
Chàng trai áo hoa thè lưỡi, rút tay về cười nói: “Tiểu sinh mạo muội rồi, chỉ muốn hỏi họ vài lời thôi”.
Mặt Úc Tri Thu không đổi sắc, cất cao giọng: “Có chuyện gì thì hỏi tôi là được, để kiếm của tôi nói cho anh biết”.
Chàng trai khôi ngô thấy gã dũng mãnh, cũng phải gật đầu khen, tránh một kiếm rồi nói với thiếu niên áo hoa: “Anh đợi ở một bên, không được ra tay”.

Vóc dáng y cao lớn, thân pháp lại vô cùng lưu loát, uốn người ở dưới kiếm Úc Tri Thu tránh ba hiệp rồi nhanh chóng lui lại nửa trượng, trường kiếm lóe lên, tung người sát lại, chỉ một kiếm đã thổi rách tay áo trái của Úc Tri Thu.

Úc Tri Thu lùi về phía sau mấy bước, mồ hôi lạnh xuất hiện trên trán, trầm giọng nói với phía sau: “Tôi chỉ có thể chống đỡ một lúc thôi, các cô còn không đi, đợi chúng tới lấy mạng à?” Dứt lời giơ kiếm đánh tiếp, kiếm pháp của gã kém xa chàng trai kia, chỉ dựa vào sự kiên cường để gắng gượng chống đỡ.

Sau mấy chiêu, gã đã lâm vào thế cực kỳ nguy hiểm, sườn phải bị cứa thành một vết thương, mặc dù không sâu nhưng máu hòa với nước mưa chảy xuống, nom mà hãi.
Các cô gái nhao nhao lui bước, chỉ có cô gái kia giậm chân, chạy vội tới trước ngựa của mình rồi tháo cung tên xuống, nhắm ngay thanh niên khôi ngô kia mà bắn.

Chàng trai áo hoa đột ngột xuất hiện, quờ được mũi tên bay, cười nói: “Cô nương nhắm không chuẩn, chớ bắn trúng vị tướng quân này nhé”.
Úc Tri Thu nghe giọng gã có ý cợt nhả thì rất khẩn trương, vừa phân tâm, ánh kiếm của đối thủ đã lóe trước mắt, xông thẳng vào yết hầu mình.


Úc Tri Thu chợt lạnh lòng, chỉ nói không may, đã thấy mũi thanh kiếm kia rung động, tên bắn nhanh vào sống kiếm, một con ngựa chiến nhảy vào.

Khương Phóng cầm cung trên ngựa, cười nói: “Thật là náo nhiệt!”.
Hai chàng trai nhìn nhau, cũng cười lớn.
Khương Phóng nói: “Úc Tri Thu, bảo vệ người đi trước”.
“Đại nhân, hai người bọn họ…”
“Hai người nữa đến cũng không việc gì”.

Khương Phóng nhìn chằm chằm vào hai chàng trai, tức đến xanh mặt: “Anh cứ việc đi trước, xuống dưới gọi người lên đây”.
Úc Tri Thu phóng người lên ngựa, dẫn mọi người phi nhanh xuống núi.

Một người trong đó điều khiển ngựa tới gần, nói: “Úc tướng quân, chúng tôi không tiện, xin chia tay tại đây”.
Úc Tri Thu gật đầu, quay đầu vẫn thấy cô gái thướt tha kia dừng ngựa lại nhìn, trong lòng rung động, không dám nhìn nữa, tăng sức vào roi trong tay, thúc ngựa xuống núi cầu viện.

Bọn thị vệ nghe gã nói: “Trên núi có thích khách” thì ồn ào nhảy lên, vớ lấy vũ khí lên ngựa đi liền, còn chưa tới đình trắng đã thấy Khương Phóng một mình chạy tới, đều hỏi: “Đại thống lĩnh, thích khách đâu?”.
Khương Phóng cười bảo: “Thích khách cái gì? Hai tên nông phu đi lầm đường, thấy tôi thì xoay người chạy vào trong rừng, ngựa của tôi không vào được.

Các anh cẩn thận lục soát, cảnh cáo bọn họ và trục xuất đi rồi thôi”.
Úc Tri Thu rất sốt ruột, mới định tranh cãi, Khương Phóng đã nháy mắt và kéo gã ra một chỗ, đợi không có ai mới nói: “Đã nói anh là một người mới rất khá mà.

Anh biết người anh bảo vệ đi là ai không? Hai người kia ra tay công khai, giống hành động của thích khách à? Truyền đi sẽ làm mất mặt thái hậu, thái phi, lắm lời một câu thì tai họa về sau đã vô cùng rồi”.

Lại trông cây cung trên ngựa của Úc Tri Thu mà than thở: “Lúc còn trẻ tôi cũng chẳng khác anh là bao, cũng bắn chết hai tên thích khách ở thượng giang đã cho rằng công cao cái thế.

Nếu không phải là lúc ấy có người tặng tôi một câu, chỉ e đã làm con ma mơ hồ lâu rồi”.
Úc Tri Thu rùng mình nói: “Vâng, đều nhờ đại thống lĩnh bảo cho”.
Khương Phóng mỉm cười, rằng: “Mau che vết thương lại rồi tức tốc về nghỉ đi.

Lần này anh có công, hoàng thượng sẽ không quên đâu”.
Úc Tri Thu vội vàng móc băng vải từ trong ngực ra, cúi đầu bọc vết thương lại, bỗng nhiên hỏi: “Đại thống lĩnh, không biết người nọ tặng câu quan trọng gì?”.
Khương Phóng ngửa mặt cười to: “E tướng quân đã thành chim sợ cành cong, thích khách lại thành mãnh hổ rồi!”.
Tay Úc Tri Thu vuốt cung nhân nghĩa, nhìn Khương Phóng phóng ngựa đi xa, cơn khai ngộ lạnh lẽo trong suốt thấm quanh người.
Mặc dù Úc Tri Thu ngậm miệng không nhắc đến chuyện này nhưng Hạ Dã Niên đã nghe phong thanh, nắm lấy cơ hội chạy tới hành cung, muốn vạch tội Khương Phóng trước mặt hoàng đế.

Đến ngoài đình Tiễn[4], Cát Tường cản gã lại nói: “Đại nhân hãy khoan, chớ nên đi về phía trước nữa”.

Rồi y liếc mắt vào trong: “Bên trong còn có phượng giá của nương nương”.
“Lão thần lỗ mãng.

Xin công công thông báo một tiếng”.
Cát Tường tỏ vẻ khó xử, nói: “Vạn tuế gia đang vui, đại nhân chờ một lát, nô tỳ thấy có cơ hội sẽ thông báo”.
Bên trong, tiếng nội thần lớn tiếng khen hay, thì ra hoàng đế trăm phát trăm trúng, cảm thấy hơi chán rồi nên gọi người dời đích ra hơn một trăm hai mươi bước, đã không thể bắn đến, quay đầu cười nói với Mộ Từ Tư: “Nàng tới đây, trẫm dạy nàng bắn tên”.
“Vâng”.

Mộ Từ Tư cười như tranh vẽ, nhận lấy một cây cung mềm tinh xảo từ tay Như Ý, lấy cái bao tay bảo vệ ngón tay.

Hoàng đế hỏi: “Bao nhiêu bước thì tốt đây?”.
“Cái cung này yếu, sợ rằng với sức của thần thiếp thì mới hơn năm mươi bước đã không thể bắn đến rồi ạ”.
Như Ý tự mình đo khoảng cách để dựng bia, cẩn thận tránh sang bên.

Hoàng đế đứng sau Mộ Từ Tư, cầm tay giương cung cho nàng, ba mũi tên đầu chỉ có một mũi bắn không trúng bia, mọi người đều khen hay.

Mộ Từ Tư tự mình bắn hai mũi, đều ra trò cả.

Hoàng đế cười nói: “Rất tốt, luyện thêm thì chắc chắn định có thể trúng đích”.
Đột nhiên Mộ Từ Tư ném cung, tháo bao tay bạc xuống, cau mày nói: “Thứ này thật vướng víu”.
Hoàng đế đang sửng sốt đã thấy bàn tay trắng ngần của nàng rút ba mũi tên dài từ trong ống, ngậm lấy hai mũi dùng răng cắn, thả tay giương cung, “teng teng teng” ba mũi tên bắn ra liên tiếp.

Như Ý nhìn lên bia, kinh ngạc nói: “Ba mũi tên đều trúng hồng tâm!”.
Đám nội thần giật mình lại vỗ tay hoan hô.

Hoàng đế vừa ngạc nhiên vừa cười: “Nàng, nàng dám lừa trẫm”.
Mặt Mộ Từ Tư còn mang theo vẻ ửng đỏ vì dùng sức, cười nói: “Thần thiếp đâu có lừa hoàng thượng, hoàng thượng nói dạy thì thần thiếp không thể nói không được”.
Như Ý nâng bia tới, nói: “Hoàng thượng lại trách oan rồi, nô tỳ nghe thấy rõ ràng, quả thực Hoà thục nghi chưa từng nói không biết bắn cung”.
Hoàng đế cười to: “Trẫm quên mất nàng xuất thân là con nhà võ tướng.

Tốt, Hoà thục nghi đọ sức với trẫm nào”.
Đám nội thần nhóm thấy hoàng đế có ý thi tài cung với Hoà thục nghi thì đều ồn ào.

Hoàng đế liếc thấy Cát Tường ở bên muốn nói lại thôi thì vẫy vẫy tay với y: “Chuyện gì?”.
“Thống lĩnh thị vệ Hạ Dã Niên xin gặp ở ngoài ạ”.
“Tìm thấy thích khách rồi à? Bảo gã nói ở ngoài hành lang đi”.

Hoàng đế xoay người lại nói với Tịch Tà: “Tài cung của khanh rất tốt, chơi cùng Hoà thục nghi một lát trước đi”.
Từ đầu Tịch Tà đã không nói được một lời, sắc mặt tái nhợt, bấy giờ khom người hành lễ, nói với Như Ý: “Một trăm bước”.

Hắn có ý không vượt qua hoàng đế nhưng Mộ Từ Tư lại nói: “Sáu mươi bước, đổi cây cung khác đi” rồi cười với Tịch Tà.
Tịch Tà vội vàng dời mắt, chỉ nghe Như Ý đánh chuông, giương cung rồi bắn.
“Hai bên đều trúng!” Đám nội thần cười nói.
Mùi hương thoang thoảng trên người Mộ Từ Tư bay tới như hương hoa rơi trong mưa, ngón tay mềm mại của nàng mò về hũ tên mang màu hồng trắng sáng mà chỉ thiếu nữ mới có, khẽ giương khẽ hợp như tia chớp ở trước mắt Tịch Tà làm hai mắt hắn đau nhức.

Tiếng hoan hô của đám người dần dần bay đi, trong tai chỉ có từng tiếng kim loại kêu, tiễn theo đó rời dây cung, đâm về phía hồng tâm tươi đẹp trong mưa phùn.

“Trúng!” Sau mỗi một tiếng hét của Như Ý, mũi tên kia lại như khoét vào tim, đau đến co rút.
“A! Không hay rồi”.

Đột nhiên Mộ Từ Tư nhẹ nhàng kêu lên, tay Tịch Tà run lên, mũi tên này bay khỏi, khó khăn lắm mới cắm ở rìa bia.
“Hoà thục nghi trúng”.

Mộ Từ Tư đã lấm tấm mồ hôi, cười nói: “Anh bị lừa rồi”.
Tịch Tà thở phào, cười: “Nhà binh không ngại dối lừa, nô tỳ thua tâm phục khẩu phục”.
“Vạn tuế gia gọi Tịch Tà”.

Tiểu Hợp Tử đến gần nói.
Tịch Tà buông cung, thi lễ xin cáo lui với Mộ Từ Tư rồi ra hành lang.

Khương Phóng mới vừa đứng dậy từ dưới đất, hung hãn trợn mắt với Tịch Tà.

Tịch Tà lấy làm lạ, chỉ nghe hoàng đế nói: “Đã là ngày thứ ba rồi mà vẫn tìm không được, sợ rằng đã để y chạy thoát.

Tịch Tà, khanh đã đấu với thích khách kia, khanh thấy y còn sống hay đã chết?”.
“Chắc còn sống ạ.

Võ công người đó cực cao, chỉ cần y có thời gian thở một hơi thì có thể thoát thân.

Nhưng thương thế của y cũng không nhẹ, sẽ không phạm đến thánh giá nữa”.
Hoàng đế gật đầu nói: “Vậy là tốt rồi.

Khương Phóng, các khanh cũng vất vả rồi, hôm nay lại quét sạch bãi săn rồi rút về thôi.

Tịch Tà, khanh cũng đi một chuyến bảo đảm không có sơ hở đi”.

Hoàng đế đứng lên định về, hỏi Tịch Tà: “Thế nào, thắng bại thế nào?”.
Tịch Tà nói: “Nô tỳ thua”.
“Khanh chơi cờ cũng thua, bắn tên còn bại bởi một cô gái?”
“Nô tỳ không thể làm theo ý mình được”.

Tịch Tà cười nói.
Hoàng đế cười lớn đi mất.

Khương Phóng vẫn nổi giận đùng đùng với Tịch Tà, hừ một tiếng bỏ đi.

Tịch Tà đuổi theo, ngạc nhiên nói: “Sao vậy?”.
“Sao vậy? Anh em tốt, bạn bè tốt của ngài ấy đúng là hai tên đần!”
“Lý Sư? Thẩm Phi Phi?”
“Vào tận ranh giới hành cung tìm ngài đấy! Tình nghĩa sâu nặng, không xa nổi một ngày”.
Tịch Tà kinh ngạc, giận quá hóa cười: “Lũ khốn!”.
Khương Phóng than thở: “Hoàng thượng hỏi việc này đấy.

May là tôi đã dỗ chúng đi rồi, giờ đang ở trấn trên Thượng Giang, ngày mai ngài còn không lộ mặt thì e chúng lại đến đấy”.
Tịch Tà trầm ngâm nói: “Còn có ai nhìn thấy nữa?”.
“Úc Tri Thu, gã thì không lo.

Chết nỗi còn có một nhóm người nữa”.
Mặt Tịch Tà lạnh lẽo, hỏi: “Ai thế?”.
Nụ cười của Khương Phóng mang theo vẻ mập mờ kỳ diệu, chậm rãi nói: “Công chúa Cảnh Ưu”.
[1] Người một nhà mà lại không nhận ra dẫn đến xung đột, tranh chấp.
[2] chức quan to thời xưa, dưới quan khanh, trên quan sĩ.
[3] Câu đầu bài Đêm xuân mừng mưa của Đỗ Phủ.
[4] Nơi hoàng đế tập cưỡi ngựa bắn tên..