Thượng Hải thất thủ, quân đội tháo chạy, ngay sau đó Tô Châu và Gia Hưng cũng rơi vào tay giặc. Ngày 20 tháng Mười một năm Dân quốc thứ 26, chính phủ quốc dân tuyên bố dời thủ đô tới Trùng Khánh. Những tuyến đường bộ thông ra tứ phương của Nam Kinh gần như đều bị phong tỏa bởi chiến loạn. Ngày 1 tháng Mười hai, trận chiến bảo vệ Nam Kinh nổ ra, quân Nhật bao vây thành phố, chiến sự giằng co quyết liệt. Binh lính lẫn người dân thành phố lâm vào cảnh ngàn cân treo sợi tóc. Nhiều người ngoại quốc mang tinh thần nhân đạo, đồng thời cũng muốn chuẩn bị trước phòng trường hợp quân Nhật chiếm lĩnh thành phố nên đã lợi dụng việc Mỹ – Nhật vẫn chưa giao chiến cùng thân phận giáo hội đại học của mình để thành lập những khu an toàn quốc tế. Hai vợ chồng Ngân Xuyên mắc kẹt tại Nam Kinh, không nghĩ ra kế vùng thoát hiểm cảnh. Một hôm, có vị kỹ sư từ xưởng hóa chất của Phạm Húc Đông ghé tới, khẩn khoản nhờ Ngân Xuyên giúp họ tìm nơi bảo quản một vài linh kiện quan trọng không thể chuyển đi. Ngân Xuyên nghĩ tới hiệu buôn vốn Âu qua lại gần gũi với mình, bèn lập tức cùng kỹ sư nọ đi tìm người phụ trách hiệu buôn.

Gần nơi ở của họ có một bưu điện, ngày ngày Cảnh Ninh đều tới đó tìm kiếm cơ hội. Từ lâu tờ báo Hồ Bắc cô đặt mua đã chẳng còn được chuyển tới, nhưng bưu điện vẫn là nơi tập trung vô số tin tức, có khi cô lại tiếp tục nghe ngóng được vài ba thông tin hữu dụng tại đây cũng nên.

Có chiếc xe bưu điện cũ nát đang đỗ ngoài cửa, toa xe xanh lá chằng chịt dấu đạn, không biết nó từ vùng chiến hỏa nào trốn chạy tới Nam Kinh này. Những tờ báo rơi đầy mặt đất, mắt Cảnh Ninh sáng lên, cô lờ mờ nhìn thấy một chữ “Sở” lớn. Lúc nào cô cũng để tâm tới những thông tin liên quan đến Hồ Bắc, đến giờ cô vẫn còn ảo tưởng có lẽ một ngày mình sẽ tìm thấy bài báo về Tiểu Quai.

Cô khom lưng nhặt tờ báo lên, đúng là “Sở báo” thật, nhưng nó được phát hành từ hơn hai tháng trước. Trang đầu có đăng một mục tin tức, tựa đề rất dài.

“Lễ truy điệu anh Mạnh Tử Chiêu – tổng giám đốc Công ty Đại Quân được cử hành vào ngày 14 tháng Mười tại Hán Khẩu. Lòng son máu đào lưu nghìn đời, người anh hùng hy sinh vì tổ quốc! Đau xót tưởng nhớ anh linh!”

Mắt cô tối sầm, chân nặng như đổ chì, cơ thể lảo đảo, ngã ngồi xuống đất. Người ngoài đường qua lại như thoi đưa, cô cứ ngồi ngẩn trên nền đất, những tiếng vang hỗn loạn cứ vọng trong tai cô, mắt cô đau xót như đang đốt lửa, như mù lòa. Cô ra sức mở trừng mắt nhìn chằm cho rõ hàng chữ trên tờ báo. Từng ô vuông nhỏ màu đen như mọc chân, cô không sao nắm bắt nổi chúng, chỉ có đầu óc cô còn tỉnh táo, thật đáng buồn. Nó đã sắp xếp những con chữ rời rạc lại ngay ngắn, giúp cô hiểu rằng người yêu xưa cũ của cô đã lìa đời.

Cậu chết giữa lòng nước sông vào một ngày Thu, mà giờ trời đã chuyển Đông.

Cảnh Ninh chợt thấy lạnh ngắt, lạnh tới phát run, hai tay cô ôm chặt lấy vai. Có người gọi tên cô, giọng điệu dò xét như đang không dám tin.

Cô ngẩng đầu, đôi mắt trống rỗng, dáng hình người đó cũng mơ hồ, vặn vẹo.

“Phan Cảnh Ninh?” Người nọ tiến lại gần một bước, đôi mắt dài hẹp tỏa sáng lấp lánh, “Ninh Ninh? Là em thật ư?!”

Sắc mặt Cảnh Ninh trắng bệch, hồi lâu cô mới mỉm cười với cậu ta, nụ cười còn khó coi hơn khóc.

“Đức Anh… thật là, thật là trùng hợp.” Cô lại cười, “Trùng hợp quá!”

Đức Anh vừa bất ngờ vừa mừng rỡ, bèn vươn tay kéo cô dậy, cậu ta luôn miệng hỏi cô vô số câu, Cảnh Ninh chẳng nghe lọt lời nào, ý thức cô vẫn đang chết lặng.

Đức Anh nói cho Cảnh Ninh hay trước đó xưởng bông của mình hợp tác rất khăng khít với Công ty Thân Tân (*). Cuối tháng trước, Thượng Hải thất thủ, xưởng bông Toyoda của Nhật thuê lãng khách Nhật Bản và đám lưu manh bản địa tới phá hỏng toàn bộ số máy kéo sợi, cướp sạch bông vải và sợi bông, công xưởng cùng khu hàng bị thiêu trụi. Họ sơ tán công nhân tới khu vực an toàn, có một số người cũng theo cậu ta tới Nam Kinh, cả nhóm đã tới đây được gần năm ngày rồi. Nhưng rõ ràng Nam Kinh chẳng thể trụ nổi nữa. Hôm nay cậu ta tới bưu điện tìm bạn, nghe ngóng tin tức, nào ngờ lại gặp Cảnh Ninh.

(*) Công ty thuộc ngành công nghiệp dệt may vốn Trung Quốc lớn nhất thời cận đại. Được sáng lập tại Thượng Hải.

“Sao em lại ở Nam Kinh? Em có chỗ ở không? Có ai đi cùng em không?” Đức Anh lo lắng hỏi.

Cảnh Ninh không lên tiếng, cô hít một hơi, gập tờ báo nhét vào túi áo nhưng rồi lại thấy hành động của mình thật vô nghĩa, bèn rút nó ra, ném vào xe đưa thư.

Thấy cô ngơ ngác hoảng hốt, cử chỉ quái lạ, Đức Anh thầm kinh ngạc, nói: “Anh vừa nhận được tin mấy hôm nữa vẫn sẽ có tàu chiến từ Hán Khẩu xuôi nam tới Vu Hồ, đưa bộ đội tới chi viện Nam Kinh, số người còn lại của chính phủ và một bộ phận nhân viên nghiên cứu, giáo viên, sinh viên đại học sẽ được đưa tới Hồ Bắc. Dọc đường, tàu chiến cũng sẽ gián tiếp hộ tống thuyền dân đi sơ tán. Ninh Ninh, anh có bạn bè phía chính phủ, em đi với bọn anh nhé, tối nay mình xuất phát ngay.”

Cảnh Ninh lắc đầu.

“Em…” Đức Anh cau mày, cậu chợt nghĩ ra chuyện gì, sực tỉnh, nói, “Có phải em có thân thích ở đây không? Hay anh đợi họ đi cùng luôn. Họ đang ở đâu vậy, anh sẽ cùng em đi tìm.”

“Em kết hôn rồi,” Cảnh Ninh dứt khoát nói, “em đã kết hôn với Trịnh Ngân Xuyên, anh ấy cũng đang ở Nam Kinh, em phải đợi anh ấy, Đức Anh, anh đừng lo cho em.”

Đức Anh kinh ngạc hồi lâu rồi cất tiếng thở dài.

“Cuối cùng anh ta cũng được toại nguyện.”

Cảnh Ninh cười nhạt, cất bước trở về nhà. Đức Anh đuổi theo cô, khẽ hỏi: “Em và anh ta tìm thấy Tiểu Quai chưa?”

Cảnh Ninh tiếp tục lắc đầu.

Đức Anh cười khổ, nói: “Anh đã làm tất cả những gì có thể. Anh chỉ đành cầu nguyện cho đứa bé đáng thương, cầu nguyện cho em. Cảnh Ninh, anh luôn rất áy náy hổ thẹn, anh có lỗi với em.”

Bờ môi Cảnh Ninh khẽ run, cô nói: “Tại em mà anh mới mất đi đứa con gái mình yêu thương, người phải hổ thẹn là em mới đúng.”

Đức Anh ngưng bặt, sự giằng co rối bời hiện rõ trên gương mặt cậu ta. Cậu ta chợt túm lấy tay Cảnh Ninh, bắt cô phải nhìn mình: “Ninh Ninh, anh không biết mình phải nói với em thế nào, chuyện đã tới nước này, hôm nay gặp mặt nhau, sau khi tạm biệt có thể đời này sẽ không còn cơ hội trùng phùng nữa. Chiến tranh loạn lạc, chẳng nói trước được điều gì, nhưng anh buộc phải cho em biết chuyện này: Tiểu Quai không phải con gái anh, không phải. Anh chưa bao giờ, chưa một lần thật sự có được em. Anh giấu em vì sợ mất em, cuối cùng khi chúng ta ly hôn, anh vẫn chọn giấu giếm. Anh xin lỗi, hôm nay anh buộc phải nói thật với em.”

Cảnh Ninh đờ đẫn nhìn cậu ta: “Anh nói sao?”

“Xin em tha thứ cho anh vì đã giấu kín sự thật bao lâu nay, vì nếu nói ra em có hận anh cũng chẳng sao, nhưng chắc chắn em sẽ vô cùng đau khổ. Anh thật lòng yêu em, sợ em tổn thương, anh sợ em biết người đó chính là Trịnh…”

“Im đi!” Cảnh Ninh thét lên, cô bịt tai, kêu khản giọng, “Im đi! Im đi! Im đi!”

Rồi cô chợt bật cười ha hả, cười, cứ cười mãi, nước mắt đầy mặt, như đang phát điên.

Nam Gia đã đợi rất lâu ngoài cổng chung cư. Thấy bóng Cảnh Ninh xuất hiện hoài đầu ngõ, anh ta vội chạy tới. Cảnh Ninh ngước mắt liếc nhìn anh ta, im lặng mở cửa. Nam Gia theo cô bước vào nhà, đang định cất lời, Cảnh Ninh đã quay phắt lại, giáng cho anh ta một bạt tai, tiếng vang chát chúa, rồi cô tiếp tục vung túi xách đánh anh ta. Nam Gia che mặt lùi về phía sau, Cảnh Ninh chỉ nghiến răng, điên cuồng đánh tiếp, đến khi dây xích kim loại bật văng ra, trượt xa trên nền phòng khách.

“Mợ à!” Gương mặt Nam Gia chằng chịt vết máu, anh ta túm lấy cổ tay cô, kinh ngạc nhìn cô, nhưng chỉ trong tích tắc anh ta đã hiểu mọi chuyện.

“Các người giấu tôi kỹ lắm!” Cảnh Ninh khóc lạc giọng, chỉ thẳng mặt anh ta, “Lý Nam Gia! Anh giúp anh ta làm ra chuyện không bằng súc sinh, hại tôi thê thảm! Các người hại tôi! Các người là lũ súc sinh! Súc sinh! Súc sinh!”

Đúng, cô đã biết, cô biết cả rồi.

Chiều hôm ấy, Ngân Xuyên bỏ thuốc mê vào trà, khi hòa cùng rượu, loại thuốc mê này sẽ khiến đầu óc mất tỉnh táo, anh dùng cách đê hèn nhất để cướp đoạt trinh tiết của cô, còn Lý Nam Gia thì nối giáo cho giặc, giúp anh giá họa cho Từ Đức Anh.

Bọn họ đều cho rằng Từ Đức Anh không còn tỉnh táo, chỉ biết mặc cho họ đùa bỡn, nhưng không, Từ Đức Anh chưa từng tin Ngân Xuyên, cậu ta không nhấp dù chỉ một ngụm trà. Thứ duy nhất Từ Đức Anh uống là chai whisky mình mang từ Hiệu buôn Tây Thịnh Xương tới, chai rượu đó không có vấn đề! Vì người phụ nữ mình yêu, gã đàn ông ngu xuẩn hèn yếu trong mắt họ đã dùng trái tim u tối mà vững vàng để nuốt nỗi nhục, đạt được mục đích.

Phải, chính ba gã đàn ông này đã bắt tay nhau hủy hoại hạnh phúc cả đời của Phan Cảnh Ninh cô, mà Ngân Xuyên chính là kẻ đầu sỏ.

Nam Gia quỳ xuống, gương mặt tái nhợt tràn đầy sự áy náy và đau khổ: “Mợ à! Xin mợ hãy tha thứ cho cậu Trịnh, cậu ấy là người yêu mợ nhất trên đời này, khoảng thời gian ấy cậu Trịnh như phát điên, mợ muốn kết hôn với Mạnh Tử Chiêu, cậu ấy không còn cách nào khác nên mới…”

“Im đi! Tôi không muốn nghe!” Cảnh Ninh khóc, điên cuồng lắc đầu, “Cái người anh nói đã hủy hoại đời tôi! Anh ta hủy hoại cuộc đời tôi! Anh ta là tên súc sinh!”

“Cha mợ giết cha mẹ cậu ấy! Cậu ấy chưa từng cho mợ hay!” Nam Gia ứa nước mắt, nói, “Cậu ấy luôn muốn báo thù, nhẫn nhục gồng mình bao nhiêu năm trời, mợ không hiểu nỗi khổ trong lòng cậu ấy đâu! Tất cả chúng ta không ai hiểu cả! Nhưng tôi đã nhìn thấy, tôi nhìn thấy nỗi đau của cậu Trịnh, cậu ấy đau đến mức hằng đêm chỉ có giày vò và mâu thuẫn bủa vây, ngày ngày sống không bằng chết, chẳng khác nào đọa đày trong địa ngục. Cậu ấy không phải súc sinh, cậu ấy chỉ là một con người đáng thương thôi! Cậu Trịnh chỉ có mợ, hai người đã thành vợ chồng, tại sao không thể bắt đầu lại từ đầu? Không phải bây giờ hai người đang rất hạnh phúc sao? Mợ ơi, mợ tha thứ cho cậu ấy đi!”

Cơ thể Cảnh ninh run cầm cập, cô nở nụ cười sầu thảm: “Hạnh phúc ư? Sẽ không bao giờ có thể hạnh phúc được nữa.”

Màn tuyết trên trời cao chậm rãi buông mình sà xuồng, lác đác mấy nụ hoa đỏ thẫm nhú ra từ cành mai, chân trời chăng kín mây đen thấp thoáng thấy ánh lửa rừng rực, khói súng mỗi lúc một dày, tiếng đại bác mỗi lúc một âm vang.

Trong đa số những áng văn mô tả khoảng thời gian này, ta sẽ chẳng tìm được bóng dáng những cá thể, hay gia đình, không bắt gặp vui buồn hợp tan, sinh ly tử biệt, cũng chẳng thấy mâu thuẫn vướng bận, đau đớn tột độ. Chỉ nhìn thấy những con số, những dòng ghi chép, thấy sự sống, cái chết, thấy những sinh mệnh hoặc hèn mọn, hoặc đáng khinh, hoặc tầm thường, hoặc vĩ đại chất chồng lên nhau như tro bụi cuồn cuộn, như sóng cả nhấp nhô, như ánh lửa bập bùng trong cảnh địa ngục đọa đày này.

Bọn họ đang sống trong địa ngục.

Tử Kim cháy rụi, Kim Lăng thành tro.

Hôm ấy là ngày 12 tháng Mười hai năm 1937, sáng hôm đó, đội cảm tử thuộc sư đoàn số 6 của quân đội Nhật Bản tập kích Trung Hoa Môn, dù chưa thể thâm nhập sâu, phải tạm lui quân nhưng sư đoàn trưởng giữ trọng trách phòng thủ Trung Hoa Môn đã tự ý đưa một bộ phận binh lính tháo chạy, gây nên khủng hoảng lớn. Chiều hôm ấy, Đường Sinh Trí – tư lệnh trưởng bộ đội cảnh vệ thủ đô triệu tập các vị tướng cấp sư đoàn trở lên, bắt đầu bố trí rút quân. Đến tối, họ Đường cùng các thành viên bộ tư lệnh ngồi thuyền rút từ Hạ Quan tới Giang Bắc, khoảng năm nghìn binh sĩ thuộc quân đoàn số 74 và sư đoàn số 36 cũng lên thuyền vượt sông. Số còn lại chạy tới khu quân phòng thủ Hạ Quan, biến thành một đoàn tán binh hỗn loạn, một số lại ghép bè băng sông, có kẻ chết chìm, có kẻ chết dưới họng súng quân Nhật, còn phần đông lưu tán nơi phố xá Nam Kinh, vứt vũ khí, khoác thường phục lẩn trốn trong khu an toàn quốc tế.

Khi Ngân Xuyên trở lại, trên đường, anh bắt gặp đám lính đào ngũ đang đánh đập dân thường, nghe người qua đường nói quân Nhật đã tràn vào thành phố, bắt đầu giết chóc, cướp đoạt. Anh đã liên hệ với vài khu an toàn, vội vã trở về nhà trước khi trời tối.

“Ninh Ninh, anh về rồi!” Anh vội vã bước vào phòng, phòng khách không có ai, bếp cũng vậy, nhưng bếp ga bập bùng lửa cháy, có nồi canh đang đun, thoang thoảng mùi thịt. Lòng anh ấm áp, cô hiếm khi xuống bếp, tay nghề cũng không điêu luyện, dù gần đây thực phẩm khan hiếm nhưng cô vẫn luôn cố gắng học hỏi để anh có thể ăn những món cô nấu.

“Ninh Ninh!” Anh vội vã bước lên cầu thang, vào phòng ngủ tìm cô, rồi lại thở phào nhẹ nhõm. Cô còn ở đây, cô vẫn bình an.

Cô ngồi sưởi ấm bên lò sưởi âm tường, mặc bộ xường xám mới làm trước khi cưới. Xường xám tay dài, bằng gấm màu tím nhạt, vạt dưới thêu hoa thược dược, cúc áo san hô đỏ. Cô sợ lạnh, dù xường xám không mỏng, tay áo lại dài nhưng vào mùa này, ăn mặc như vậy vẫn không ổn lắm.

“Sao em lại mặc bộ này?” Ngân Xuyên tò mò, anh bước tới bên cô, vuốt ve gương mặt cô, cô khẽ khàng ngoảnh đi.

“Em nấu canh, chúng ta ăn cơm thôi.” Cô khẽ nói, đứng dậy.

“Ừ,” Ngân Xuyên nói, “nhưng em thay đồ trước đã, ăn xong mình sẽ đi ngay.”

Cảnh Ninh kinh ngạc ngẩng đầu: “Anh gặp anh ta rồi?”

“Ai cơ?”

Có thứ gì đó lập lòe trong mắt cô, cô nói: “Đi đâu?”

“Khu an toàn. Người Nhật Bản tới rồi, quân phòng ngự bắt đầu rút lui, không cầm cự được bao lâu nữa, mình phải rời khỏi đây ngay.” Ngân Xuyên xách chiếc vali dưới gầm giường ra, những món đồ cần mang đi đã được xếp sẵn bên trong từ sớm, sau đó anh lấy một bộ đồ bông hết sức phổ thông từ tủ quần áo, ném xuống giường, “Ninh Ninh, em mau thay đồ đi!”

“Hôm nay em không muốn đi,” Cảnh Ninh ngáp, “tối mò tối mịt rồi, em không muốn đi đâu cả, để mai đi.”

Ngân Xuyên vô cùng sốt ruột: “Hiện giờ thật sự đang rất nguy hiểm, em ngoan nào, mình buộc phải đi ngay! Em mau thay đồ đi, em mặc thế này lỡ đâu, lỡ đâu…” Anh không muốn nói những lời xui xẻo, bèn cầm bộ đồ bông bước tới trước mặt cô, cởi cúc xường xám giúp cô, dịu dàng dỗ dành, “Ninh Ninh ngoan, mình thay đồ nhé. Nghe lời nhé.”

Cô chợt hất văng tay anh, lùi về phía sau: “Hôm nay em thật sự không muốn đi đâu cả! Em đã bảo mai đi là mai đi kia mà! Anh đừng có quấy rầy em.”

Ngân Xuyên vừa sốt ruột vừa giận, không nhiều lời với cô nữa, anh cắn răng kéo cô lại, Cảnh Ninh như phát điên, cứng đầu cứng cổ không chịu nghe, giãy giụa thật lực, không giãy được thì cắn tay anh. Ngân Xuyên mặt mũi xanh mét, mặc cho cô cắn, tay vẫn không ngừng lại, “xoẹt” một tiếng, anh cởi móc khóa bên ngực cô, một viên san hô rơi xuống, Cảnh Ninh khóc thét lên: “Em không mặc, em không mặc! Em không mặc cái thứ rách nát khó coi này!” Cô giằng lấy bộ đồ trong tay anh, ném vào lò sưởi, ánh lửa lóe lên, mùi khét nồng nặc.

Ngân Xuyên sững sờ nhìn bộ đồ bắt lửa, im lặng hồi lâu, anh chợt bật cười.

Cảnh Ninh thở hổn hển, trợn mắt nhìn anh: “Cút đi! Anh cút đi! Anh thích đi đâu thì đi, hôm nay tôi sẽ ở đây, tôi có chết ở đây anh cũng cứ mặc tôi.”

Ngân Xuyên thét: “Được! Em thích mặc thế nào thì tùy em, muốn làm gì cũng được, anh không quan tâm tới em nữa! Em muốn chết anh cũng mặc em!” Anh mới cất được mấy bước, cô đã chạy lại ôm eo anh, khóc to: “Anh không được đi! Anh dám đi sao!”

Nhịp tim anh như ngừng lại, anh nhắm mắt, quay lại trút những nụ hôn lên gương mặt cô, mặc kệ tất thảy, tàn bạo ngang ngược như không muốn để cô hít thở, muốn cô chết chìm trong những nụ hôn.

“Anh phải làm gì với em đây, anh phải làm gì với em!” Anh bất lực nói.

“Em hận anh! Hận anh! Tại sao em lại hận anh tới vậy!” Cô nện vào lồng ngực anh, phát ra tiếng nghẹn ngào như đang co giật.

Anh không giằng co với cô nữa. Hôm nay cô quái lạ vậy chắc cũng do sợ quá, vậy thì tùy cô, nghe cô vậy, sớm mai họ sẽ đi. Chuyện gì anh cũng nghe cô.

Đến khi cô bình tĩnh lại, họ cùng xuống nhà ăn cơm, cô vào bếp loay hoay một lúc, bưng hai bát mì ra, nước mì mang màu hồng nhạt.

Cảnh Ninh đưa đũa bát cho anh: “Em biết anh muốn ăn cơm em nấu nhưng giờ chẳng mua được gì nữa rồi, khó khăn lắm mới tìm được một ít ngó sen nhưng cũng nát mất quá nửa. Canh không có xương sườn, em bỏ một ít mỡ lợn còn thừa vào, chắc không ngon lắm đâu.”

“Em biết anh thích ăn canh ngó sen, đúng không Ngân Xuyên?” Cô mỉm cười.

“Tách” một tiếng, một giọt nước mắt anh ứa ra, rơi xuống bàn.

Sau khi kết hôn, bọn họ từng có những ngày tháng rất ngượng ngập, có lúc cô sẽ gọi anh là anh cả, đôi khi lại chỉ cất tiếng “này”, anh biết cô chưa thể gỡ bỏ khúc mắc, nhưng hiện giờ cô đã gọi anh là Ngân Xuyên một cách hết sức tự nhiên, cô còn nấu canh ngó sen cho anh. Theo tập tục Hồ Bắc, canh ngó sen là món nấu cho chồng mình.

“Em bỏ nhiều hạt tiêu quá à?” Cô trêu cười vẻ lúng túng của anh, đôi môi cong lên, vẻ mặt yêu kiều, như cô bé vô ưu vô lo từ rất lâu trước kia.

Ngân Xuyên ngượng ngùng nở nụ cười, nhưng mới xấu hổ làm sao, nước mắt anh lại rơi xuống. Cảnh Ninh cầm khăn tay, bước tới bên anh, vừa vươn tay anh đã ôm cô vào lòng.

“Ninh Ninh, cảm ơn em.”

Cô khẽ nói: “Ngân Xuyên, về sau đừng khiến bản thân mình khổ sở như vậy nữa.”

Anh nâng gương mặt cô lên, run rẩy nói: “Ninh Ninh, thật ra anh có lỗi với em, anh…”

“Suỵt…” Cô ra hiệu anh đừng nói nữa, “Đời này vẫn còn dài lắm, anh hãy chậm rãi bồi thường cho em.”

Anh vui mừng tới phát điên, đôi mắt sáng lấp lánh, gật đầu thật mạnh.

Cô kéo ghế, ngồi bên cạnh anh, hai người cười nói, ăn hết bát mì như một đôi vợ chồng bình thường tới độ không thể bình thường hơn được nữa. Tiếng đại bác ngoài xa không dứt nhưng Ngân Xuyên đã quyết tâm, anh nhất định sẽ đưa cô tới nơi an toàn.

Đêm, họ mặc nguyên quần áo, chìm vào giấc ngủ cho đến khi bị đánh thức bởi tiếng súng dày đặc như mưa. Trăng sáng vằng vặc, bệ cửa sổ phủ một tầng tuyết mỏng, giống hệt như cái đêm bốn năm về trước.

Sự cảnh giác trong suốt nhiều ngày trời giúp họ tạo được thói quen, dù tiếng súng có mạnh hơn nữa, họ cũng chẳng hốt hoảng như lần đầu mới nghe. Ngân Xuyên dập tắt lò sưởi, Cảnh Ninh ngồi thẳng dậy, xường xám nhăn nhúm vì giấc ngủ, cô vội vã chỉnh trang lại xiêm y, thấy Ngân Xuyên đã chuẩn bị sẵn sàng từ sớm, đang hắt nước dập lửa trong lò, bóng lưng anh khiến cô nhớ tới một chuyện cũ thuở xưa. Tựa như giấc mộng từ đời trước.

Ngân Xuyên quay đầu, thấy mắt cô ầng ậc nước, khóe môi nở nụ cười đau thương.

“Ninh Ninh, em mau khoác áo vào đi.”

Cô sực tỉnh, đứng dậy nhanh nhẹn thu dọn.

Cổng đã khóa chặt, bọn họ phải xuống hầm trú ẩn, đêm nay tiếng súng hơi là lạ so với trước kia, nó dày đặc hơn, gần hơn! Ánh trăng sáng rực, chiếu rọi phòng ngủ bằng sắc trắng trong vắt, lò sưởi tắt lịm, dù đã đóng cửa, tường cũng rất dày nhưng phòng ốc vẫn lạnh lẽo vô cùng.

Ngân Xuyên cầm chiếc áo khoác của mình, nói: “Mình mau xuống thôi, anh thấy hơi…”

Ba chữ “không ổn lắm” còn chưa thốt đã nghe có một tiếng “âm” vang lên, sau đó lại loảng xoảng mấy tiếng, đó là âm thanh xích sắt ngoài cổng sân bị chém đứt bởi thứ đồ vật sắc bén, rơi xuống nền đất, Ngân Xuyên nhìn thấy ánh đèn pin dưới sân, có người xông vào.

Không kịp nữa rồi, lúc này xuống lầu ắt sẽ đụng mặt đám người nọ.

Ngân Xuyên vội vã khóa trái cửa phòng ngủ, anh kéo tay Cảnh Ninh, hai người trốn trong chiếc tủ quần áo lớn. Cảnh Ninh cuộn tròn lại, rúc đầu vào ngực anh, cơ thể khẽ run rẩy. Anh ôm cô, biết có lẽ đây là cái ôm cuối cùng trong đời họ.

Không phải đã nói là cả đời này sao? Quãng đời dài lâu, mang hy vọng vô tận ấy đâu? Sự bồi thường và bù đắp của anh thì sao? Anh đã hứa với cô rồi mà. Nhưng anh mới nếm vị ngọt hạnh phúc, tại sao nó lại biến mất nhanh tới vậy?

Những kẻ nọ đang xô cổng tầng dưới, rất mạnh, tiếng vang đinh tai đâm rách bầu không khí giá lạnh buổi đêm. Ngân Xuyên run lên, ôm Cảnh Ninh thật chặt.

“Ngân Xuyên…” Cảnh Ninh vươn tay vuốt ve gò má anh, khẽ nói, “giúp em một việc.”

Anh không nhìn thấy gương mặt cô, vì tủ quần áo đen đặc một màu, nhưng dường như đôi mắt cô có ánh sáng đang lập lòe. Anh biết cô muốn mình làm gì.

“Không. Anh không làm được!” Anh run rẩy nói.

“Em sợ bẩn, em mệt rồi, em muốn chết trong tay anh.”

“Không…” Trăm nghìn mũi kim đâm vào tim anh, nhưng anh không thấy đau, vì anh đã nếm trải nỗi đau ấy từ rất lâu rồi. Vào cái thời mà anh còn rất nhỏ, rất nhỏ, khi mẹ định đẩy anh vào lòng sông, khi anh nức nở vì sinh mạng mẹ đã trôi tuột khỏi lòng bàn tay, anh đã nếm trải nỗi đau ấy từ sớm.

Cô kéo tay anh, đặt lên môi mình: “Cầu xin anh. Giết em đi.”

Tiếng súng ngắn ngủi vang lên, họ nghe thấy âm thanh khóa cửa rơi xuống nền đất.

Nước mắt nóng hổi lăn xuống trán cô, gò má cô.

“Bé Hạt Dẻ… sao em luôn tàn nhẫn với anh tới vậy…”

Cô khẽ mỉm cười, đôi môi nhẹ nhàng mấp máy, hôn lên lòng bàn tay anh như đứa trẻ nghịch ngợm: “Ai bảo anh tàn nhẫn với em đến thế.”

Tiếng bước chân rầm rầm vọng lại từ dưới nhà, đám người đó đã xông vào.

Không còn lựa chọn nữa rồi, anh hôn lên môi cô: “Em đi trước, anh sẽ tới tìm em ngay.”

Anh cầm lấy bộ đồ bên cạnh, bịt chặt mũi cô, gồng hết sức bình sinh, muốn cô có thể rời đi nhanh nhất, ít đau đớn nhất, cô thậm chí còn chẳng hề giãy giụa, chỉ có bàn tay khẽ động đậy trong giây phút cuối cùng, kéo chiếc cánh trượt tủ quần áo, khiến ánh trăng lạnh buốt rọi vào, anh nhìn thấy đôi mắt cô từ từ khép lại, như dáng vẻ thời cô còn thơ, được vỗ về chìm vào sự im lặng ngọt ngào.

Từng căn phòng bật mở, có mấy kẻ đã chạy lên tầng.

Không sao, cô đã không còn thở nữa, vầng trán trơn nhẵn, rải đầy ánh trăng. Anh đã bóp chết cô, nhanh tới vậy, nhanh như một giấc mơ, chớp mắt đã là một đời.

Trong đêm trăng lạnh giá thê lương ấy, anh trả lại cô mọi thứ mình đã cướp mất. Con sông thời gian thuộc về cô ngừng chảy, sự bình yên, hạnh phúc, êm ả cô từng có vẫn cứ vẹn nguyên nơi đó như cát mịn lòng sông. Anh trả lại cho cô. Trả tất cả cho cô.

Cửa phòng ngủ được đẩy ra, đám người xông vào.

Ngân Xuyên vẫn ôm lấy Cảnh Ninh, ôm siết lấy gương mặt cô, anh run rẩy, nghẹt thở, lặng im điên cuồng trong bóng đen.

Cuối cùng, ánh đèn pin chiếu lên gương mặt anh, sau khoảnh khắc lóa mắt ngắn ngủi, anh nhìn rõ kẻ vừa bước vào.

Không phải lính Nhật, cũng không phải quân đào ngũ Trung Quốc, càng không phải côn đồ thổ phỉ.

Người nọ vội vã tiến lại, dìu anh dậy: “Cảm ơn trời đất, cậu Trịnh, hai người vẫn còn ở đây!”

Anh ta là Lưu Ngũ, thuộc hạ của Đồng Xuân Giang.

“Cậu Trịnh, mau lên, tôi sẽ đưa cậu tới tìm Nam Gia và Tố Hoài!”

Ngân Xuyên không nhúc nhích, thứ ánh sáng khác lạ lóe lên trong mắt anh, Lưu Ngũ kéo anh, nhưng anh ra sức giãy giụa.

Anh há miệng, phát ra một tiếng kêu khản đặc, như tiếng thét của loài thú sắp chết.

Anh không may mắn như cô, không ai chịu giết anh, vậy nên anh chỉ có thể tự tìm cái chết. Tự sát không khó, nhưng chết quả là chẳng dễ dàng. Có lẽ trong lòng cô, chuyện tốt nhất mà đời này anh làm vì cô chính là tự tay giết chết cô. Cô bỏ mặc tất cả, chạy thoát đúng như mình hằng mong, còn anh thì đọa đày trong địa ngục sống.

Trên đường từ Nam Kinh đến Vu Hồ, Ngân Xuyên đã nhiều lần từ sát, lần nào cũng được cứu. Anh hận, anh nghĩ nhất định mình đã tao ngộ lời nguyền rủa tàn ác nhất, sống không bằng chết, nhưng lại chẳng thể chết nổi, song, anh nên hận ai đây?

Đồng Xuân Giang liều chết tới Thượng Hải cứu vợ con mắc kẹt, bất đắc dĩ phải đưa người vòng sang Nam Kinh, sau đó lại gặp được Nam Gia, ông đồng ý tối nay sẽ tìm người đưa họ tới Vu Hồ, dù không thể đảm bảo an toàn nhưng có lẽ đây là cơ hội sống sót duy nhất của họ. Nam Gia tìm Ngân Xuyên nhưng chỉ gặp được Cảnh Ninh, dù khi ấy Cảnh Ninh đã suy sụp vì sự thật quá khứ, song sau khi cô bình tĩnh lại, Nam Gia tiết lộ việc này cho cô.

“Dù mợ muốn làm gì, có muốn chấm dứt với cậu Trịnh thì cũng đợi rời Nam Kinh đã rồi hẵng tính. Sau khi cậu Trịnh trở lại, hai người hãy mau chóng thu dọn đồ đạc, giờ tôi phải tìm Tố Hoài, tối nay anh Lưu Ngũ sẽ đưa người tới đón cả hai. Nhưng hai người vẫn phải khóa cửa cẩn thận như mọi khi, tôi thật sự không dám chắc liệu quân Nhật có đến trước một bước không. Chỉ có thể nghe theo ý trời thôi.”

Khi đó đêm đã về khuya, một bộ phận quân Nhật tràn vào thành phố, dù đám Lưu Ngũ tìm được chỗ ở của Ngân Xuyên nhưng không dám lớn tiếng gọi, họ không dám chắc tình hình bên trong, cũng lo xung quanh có lính Nhật Bản.

Nhưng người duy nhất chắc chắn nhóm Lưu Ngũ sẽ xuất hiện chính là Phan Cảnh Ninh. Trước khi họ tới, cô đã quyết định mình sẽ đặt dấu chấm hết cho mình và Ngân Xuyên.

Cô khiến anh giết cô.

Họ buộc phải đưa di thể Cảnh Ninh đi, Ngân Xuyên đã phát điên, anh vẫn tin rằng cô còn sống, anh giữ cô không buông, thét gọi cô, lay cô, nhưng Cảnh Ninh không tỉnh dậy. Thời gian gấp gáp, không thể trì hoãn thêm nữa, Lưu Ngũ buộc phải đánh ngất anh. Đang giờ phút ngàn cân treo sợi tóc, nào ai còn sức thương cảm cho ai, Đồng Xuân Giang lập tức cho đám Tố Hoài đưa Ngân Xuyên tới Vu Hồ, phần mình và các anh em tiếp tục tìm đường về phương Nam, dù rằng họ sẽ phải đối mặt với tình cảnh còn hiểm nguy gấp bội. Trước khi đi, ông nhìn gương mặt tái ngắt của Ngân Xuyên, thở dài: “Nếu các cậu không sợ chết thì hãy chờ ở Vu Hồ ba ngày, người của tôi sẽ nghĩ cách đem tro cốt của mợ Trịnh tới. Hôm nay tôi không thể mạo hiểm được.”