Chiếc xe hơi men theo bờ sông chừng nửa tiếng, lướt qua một hàng ngô đồng Pháp cao cao, dừng trước khoảng sân tĩnh mịch. Họ bước vào cổng, vòng qua măng đá giả sơn được đắp bằng những hòn đá Thái Hồ. Đây là một tòa nhà có hai sân trước sau, bao quanh phòng khách có những hàng cột, giữa là dãy ghế liền lan can để dừng chân nghỉ, ánh đèn trong phòng ánh lên qua lớp hoa văn băng rạn trên khung cửa hình thân bình. Một nam nhân viên phục vụ mặc sơ mi trắng, quần đen đứng nghênh tiếp trước cửa, lễ phép chào hỏi Ngân Xuyên: “Anh Phan tới rồi ạ.” Rồi anh ta lại khom lưng chào Cảnh Ninh.

Kiểu mái hông và đầu hồi Đông Á khiến căn phòng khách trở nên vô cùng rộng rãi, gian trước không có bình phong, giúp gian trong tránh được sự bí bách tù túng, đại sảnh có hai chiếc bàn lớn, nhưng không có khách ngồi, hai bên Đông Tây đều cất phòng, tuy vậy phòng ốc không thông nhau, trước cửa các gian là dãy hành lang được ngăn ra với một chiều dài vừa vặn. Có vẻ căn phòng phía Tây đã được khách bao, cứ chốc chốc lại có tiếng cười nói vọng lại, còn hai căn phòng phía Đông hình như đang bỏ trống.

Nhân viên phục vụ vén rèm bước vào, đứng gọn sang một bên, mời Ngân Xuyên và Cảnh Ninh vào phòng. Căn phòng hết sức rộng rãi, dưới cửa sổ hướng chính Bắc có bày hương án gỗ sồi, bình đấu thái (*) cắm hoa theo mùa, tranh treo kín ba mặt tường: non nước trái đỏ, chim hoa tuyết phủ, tùng trúc mai lan. Cảnh Ninh vừa đi vừa ngắm, dù tâm trạng đang tồi tệ nhưng cô cũng thấy nhà hàng này rất thanh nhã thú vị, hoàn toàn bất đồng với những tiệm ăn thông thường.

(*) Đấu thái: Loại đồ sứ màu có kỹ thuật trang trí kết hợp thanh hoa dưới lớp men và màu sắc trên men. 

Ngồi xuống bàn rồi, Ngân Xuyên nói với Cảnh Ninh: “Món cá của nhà hàng này rất ngon, phòng ốc sạch sẽ, đây là chốn tụ tập của bạn bè, thường chỉ dành để thiết đãi người trong giới kinh doanh. Mấy hôm trước nó được sửa chữa trang hoàng lại nên giờ anh mới có thể đưa em đến.”

Cảnh Ninh ngẩng đầu, uể oải đáp lời anh.

Chẳng mấy chốc nhân viên phục vụ đã dọn đậu phộng hạt dưa, mứt kẹo điểm tâm, rồi lại bưng trà lên châm cho họ. Ngân Xuyên gọi một phần canh xương hầm bầu, lươn nấu măng xanh, thêm mấy món chưng, rồi anh hỏi có loại cá tươi gì, nhân viên cười đáp: “Bọn tôi mới lấy được một con cá chép sông nặng gần mười lăm cân.”

“Hai chúng tôi không ăn hết được, một cái đầu cá thôi cũng đủ nấu thành hai nồi to rồi. Thôi thì cậu dặn đầu bếp chọn hai con cá mương, phi lê cho tôi, rồi thêm ít đậu phụ, gói vài miếng sủi cảo là được.”

Nhân viên phục vụ đáp vâng, rời phòng.

Cảnh Ninh thờ ơ uống trà.

Ngân Xuyên lại gọi nhân viên vào, chọn thêm một suất ngọn rau bí đỏ xào. Trong lúc chờ đồ ăn, anh bốc một nắm hạt dưa, bóc sạch vỏ đặt vào chiếc đĩa nhỏ, có lẽ vì muốn cô nhớ tới khoảng thời gian vui vẻ khi xưa, anh xếp hạt bí thành hình một bông hoa bé xinh, mỉm cười nói: “Em còn nhớ không? Mỗi lần em buồn anh đều mua hạt dẻ, chân gà om xì dầu, hoặc là bóc hạt dưa cho em, xếp hạt dưa thành hình con vật, thành hình hoa, hễ thấy chúng là em nín khóc ngay.”

“Em không còn là trẻ con nữa rồi, em đã qua cái tuổi có thể được dỗ dành vui vẻ nhờ đồ ăn.”

Nụ cười nhợt nhạt ôn hòa vẫn in trên môi anh: “Vậy thì em cũng phải ăn chứ. Ăn ngon, ăn no mới có sức để yêu, để hận, mới có sức để giận, để đau lòng.”

Cảnh Ninh nhìn bông hoa nhỏ trên đĩa, ánh lệ loang loáng trong mắt cô: “Anh cả, em từng chỉ biết trông cậy vào mình anh, dù em biết anh sẽ rất giận nhưng em luôn cho rằng anh sẽ giúp em.”

“Anh xin lỗi.” Nụ cười của anh dần lụi tắt, “Dù hôm ấy kịp ngăn cản nhưng một ký giả vẫn chụp được ảnh. Ảnh rất mờ, tuy vậy cũng đủ để nhận ra em và kẻ đó. Anh không muốn giấu giếm em, anh giữ nó vì muốn đối chất với nhà họ Từ, có mang đi kiện cũng coi như thêm một bằng chứng.”

“Ảnh trong tay anh thì tại sao người nhà họ Mạnh lại nhìn thấy?”

Ngân Xuyên kinh ngạc: “Người nhà họ Mạnh thấy rồi ư? Sao có thể như vậy! Anh chỉ đưa nó cho cha thôi…” Anh chợt im bặt, trầm ngâm chốc lát rồi lại do dự lắc đầu, “Không, cha không thể đưa tấm ảnh đó cho nhà họ Mạnh được. Chắc chắn ông sẽ không cam tâm hủy hoại danh dự của mình trước mặt người nhà họ Mạnh.”

Cảnh Ninh cười khổ: “Hủy hoại danh dự… Đúng vậy, em phóng đãng buông thả, khiến ông ấy nhục nhã tủi hổ.”

Ngân Xuyên trầm lặng trong chốc lát rồi nói: “Hạt Dẻ, sinh ra trong một gia đình như nhà mình, ít nhiều gì số phận của chúng ta cũng sẽ gắn kết với sự tình trên thương trường. Đây là nỗi bất hạnh của chúng ta, em buộc phải hiểu rõ sự thật này. Anh muốn nói cho em biết, từ nhỏ tới lớn em luôn là người anh quý trọng nhất. Dù em có gặp phải chuyện gì, dù người khác có nhìn em với ánh mắt thế nào, tấm lòng anh dành cho em vẫn không mảy may đổi khác.”

Cảnh Ninh rưng rưng, nhưng cô cố sức kìm nén những giọt nước mắt, cắn môi không lên tiếng.

Ngân Xuyên dừng lại một lát, rồi anh chậm rãi nói cho cô nghe những xung đột trên thương trường của hai nhà Phan – Mạnh; những đối chọi gay gắt đằng sau bề ngoài hòa bình; cách các hiệu buôn Tây liên thủ tấn công những công ty vận tải đường biển Trung Quốc, trong đó tiêu biểu là Đại Quân, bằng sức ép giá cả; và cả việc Mạnh Quân đã hứng chịu tổn hại nặng nề nhường nào.

“Giả sử em và Mạnh Tử Chiêu kết hôn, sau đó vấp phải những mâu thuẫn lợi ích không thể điều hòa giữa hai nhà, khi ấy đôi bên sẽ càng đau khổ và khó xử hơn, e còn đau lòng gấp trăm lần so với lúc này. Xét một cách công bằng, anh cho rằng việc hủy bỏ hôn ước ngay bây giờ chẳng phải chuyện xấu. Huống chi…” Anh khựng lại, nhưng cuối cùng vẫn nói tiếp, “huống chi có vẻ nhà họ Mạnh cũng không chấp nhận một cô con dâu thất trinh trước khi kết hôn.”

Cảnh Ninh như bị thọc một nhát dao, cơ thể cô run lên, Ngân Xuyên bình tĩnh nhìn cô: “Văn phòng nhà họ Mạnh tại Trường Sa, Trương Gia Cảng, Ninh Ba, hay thậm chí là Thiên Tân đều đã lần lượt bị dỡ bỏ, chuyện họ làm ăn lụi bại không phải mới ngày một ngày hai, từ năm ngoái đã bắt đầu có dấu hiệu trượt dốc, các hiệu buôn Tây chọn cách tấn công họ vào thời điểm bấy giờ cũng là vì lẽ đó. Thực lực bác Mạnh đáng gờm, lại không ngại đi đến bước đường lưỡng bại câu thương, trong khoảng thời gian ngắn ngủi, lợi thế chắc chắn không thể nghiêng về phía hiệu buôn Tây. Địa vị nhà họ Phan chúng ta tại Phổ Huệ không bì được với khi xưa, trụ sở chính có thể tước bỏ chức vụ tổng mại bản của cha bất cứ lúc nào. Để bảo vệ địa vị của mình, cha buộc phải tìm mọi cách giải quyết vấn đề nan giải của hiệu buôn Tây là nhà họ Mạnh. Anh đoán cha trao tấm ảnh cho phó thị trưởng Từ vì muốn ông ấy dừng ủng hộ Đại Quân, còn vì sao tấm ảnh đó lại chạy được tới tay nhà họ Mạnh, anh…”

“Đừng nói nữa.” Giọng Cảnh Ninh run rẩy, ánh mắt tràn ngập sự cảnh giác và đau đớn.

“Ninh Ninh, em thế này anh rất đau lòng, nhưng anh sẽ không an ủi em bằng những lời vô nghĩa.” Ngân Xuyên nhìn những hạt đậu phộng trong tay, anh cắn môi, “Chắc em cũng rất muốn biết Mạnh Tử Chiêu đang nghĩ gì…”

Cô sợ hãi nhìn anh. Ngân Xuyên thở dài, nói: “Sau khi trở về Hán Khẩu, Mạnh Tử Chiêu đã được đưa lên làm tổng giám đốc Đại Quân. Dù cậu ấy nhạy bén nhanh trí, nhưng không có kinh nghiệm trên thương trường, giờ lại phải gồng gánh trách nhiệm khổng lồ, đảm nhận chức vụ quan trọng nhất tại Đại Quân. Vài người đoán có thể ông Mạnh đã gặp phải chuyện ngoài ý muốn, nhưng nhà họ Mạnh rất kín tiếng, không ai biết rốt cuộc tình hình hiện giờ đang ra sao. Mà cũng có thể Đại Quân chỉ đang tung hỏa mù để đánh lạc hướng đối thủ. Nhưng dù có thế nào đi chăng nữa, Mạnh Tử Chiêu cũng đang đối mặt với áp lực khổng lồ, em không nên làm cậu ấy muộn phiền thêm.”

Cảnh Ninh khóc, nói: “Em đã hại anh ấy, em hại gia đình anh ấy, thảo nào anh ấy không chịu tha thứ cho em.”

Ngân Xuyên đưa khăn tay cho Cảnh Ninh, anh khẽ thốt: “Em thế này anh cũng rất khó chịu.”

“Giờ em còn có thể làm gì cho Tử Chiêu không? Anh ấy rất hiếu thắng, nếu không phải em khiến Tử Chiêu quá đau khổ, anh ấy đã không đoạn tuyệt với em mà chẳng nói chẳng rằng.” Đầu óc cô vẫn chỉ toàn là Tử Chiêu, “Em có thể làm gì để bù đắp cho anh ấy đây? Chuyện gì cũng được, chỉ cần có thể giúp Tử Chiêu, dù chỉ là một chút thôi. Anh ơi, em xin anh, anh nói cho em biết đi, em xin anh đấy!”

Cô siết chặt lấy tay anh, gương mắt trắng bệch chứa chan cả niềm kỳ vọng lẫn bất lực. Anh nhẹ nhàng rút tay ra, lạnh nhạt nói: “Giờ bảo đoạn tuyệt vẫn còn hơi sớm, có lẽ cậu ấy chỉ muốn xử lý xong chuyện nhà họ Mạnh rồi mới cân nhắc việc hai đứa. Nếu em thật sự muốn giúp Tử Chiêu thì hãy cho cậu ấy một chút thời gian, giảm bớt áp lực trên vai cậu ấy. Như vậy tốt cho cả cậu ấy lẫn em.”

Cảnh Ninh ngơ ngác không thốt tiếng nào.

Những đĩa thức ăn lần lượt được bưng lên, Ngân Xuyên múc một bát canh cho Cảnh Ninh, rồi cũng lấy cho mình một bát. Cảnh Ninh bất động, cô ngồi thẳng tắp lưng, chỉ thấy thời gian chậm chạp tới độ tuyệt vọng.

“Tại sao cuộc đời lại đau khổ tới vậy, trước kia em chưa từng cảm nhận được điều này.”

Ngân Xuyên cười: “Khổ thì sao? Khổ nữa thì cũng phải sống cho tử tế. Con người ta sống cả một đời chưa chắc đã là vì hưởng phúc.”

“Vậy thì vì cái gì?” Cô đau buồn hỏi.

Anh liếc cô, ánh mắt sáng rực: “Với anh, sống là để ở bên… người anh quan tâm. Dù có phải chịu đựng gian khổ giày vò, dù trước mắt chỉ có khốn khổ đày đọa, dù cả đời phải đau thắt tim thắt gan, dù cái gọi là ‘ở bên’ chỉ như thứ danh xưng phù phiếm, dù cô ấy có phải sống cùng trong cái thế gian khổ sở này, nhưng anh vẫn muốn một lòng một dạ yêu cô ấy, nhớ tới cô ấy. Dù không có được cô ấy, anh cũng phải lết từng bước, sống qua từng ngày. Chỉ cần cô ấy còn ở đây, chỉ cần hy vọng còn ở đây, sự tồn tại của anh còn có ý nghĩa.”

Cô thoáng kinh hãi, sự tuyệt vọng và cố chấp hiển hiện trong lời anh, vô số ngờ vực cuộn lên trong lòng cô, cả ánh mắt anh nhìn cô khi nói những lời này cũng khiến cô nghi ngờ tột cùng. Đây không phải là lần đầu tiên thứ cảm giác lạ lẫm ấy xuất hiện, nó khiến cô phấp phỏng bất an, nhưng những cú sốc liên tiếp giáng xuống trong mấy ngày nay đã khiến cô chẳng dám nghĩ sâu thêm.

Ngân Xuyên chuyển đề tài cuộc trò chuyện, anh mỉm cười: “Để anh múc cho em bát canh mới.”

Đêm khuya tĩnh mịch, lá cây xào xạc, loáng thoáng nghe thấy giọng trẻ con ồn ào và tiếng vỗ về dịu dàng của người mẹ, hóa ra căn phòng cách vách cũng có khách. Trước khi ra về, Ngân Xuyên và Cảnh Ninh bắt gặp Đồng Xuân Giang tại đại sảnh. Bên ngài Đồng còn có một người phụ nữ yểu điệu, trông cô này rất trẻ trung, ôm một đứa trẻ mũm mĩm trong lòng, khóe môi ngậm cười, gương mặt tỏa sáng rực rỡ. Đồng Xuân Giang đang trò chuyện với một người đàn ông trung niên, chốc chốc thiếu phụ lại góp đôi lời, chẳng biết nói gì mà người kia cứ cười ha hả, nói: “Ngài Đồng, ngài tìm đâu ra cô vợ thú vị thế này?”

Đồng Xuân Giang nhướng mày, cười: “Đào dưới đất lên đấy.”

Thiếu phụ như giận như cười, cô cọ cằm vào gương mặt đứa bé: “Cha con lại nói linh tinh kìa, hai mẹ con mình phải cho cha một cái bạt tai mới được.” Rồi cô cầm tay đứa bé giả bộ đánh ngài Đồng, Đồng Xuân Giang trừng mắt, làm bộ giận: “Cái thằng nhóc này, còn dám đánh cha à, sét đánh cháy mông con bây giờ.”

“Cứ đánh đã rồi tính!”

Đồng Xuân Giang bế con lên, đứa nhóc giãy giụa, dúi sâu vào lòng mẹ, Đồng Xuân Giang quay đầu, lúc này ông mới thấy Ngân Xuyên và Cảnh Ninh, bèn cười: “Ồ, cậu Phan, trùng hợp quá.”

Ngân Xuyên cười, tiến lại chào hỏi ông. Vốn Cảnh Ninh đã muốn tránh đi, nhưng thấy đứa bé đáng yêu như một quả cầu tuyết, cô lại dằn lòng không đậu, tiến lên theo Ngân Xuyên.

Đồng Xuân Giang trả đứa bé lại cho thiếu phụ, chắp tay đáp lễ Ngân Xuyên, rồi lại gật đầu coi như chào hỏi Cảnh Ninh. Vợ ngài Đồng từng gặp Ngân Xuyên rồi, cô cười hỏi: “Đây là phu nhân của anh Phan nhỉ?”

Ngân Xuyên còn chưa đáp Cảnh Ninh đã vội nói: “Tôi là em gái anh ấy.”

Bà Đồng đỏ mặt: “Hóa ra là cô Phan, xin lỗi cô nhé.” Cảnh Ninh lạnh lùng quay mặt đi, không đáp lời.

Ngân Xuyên chào hỏi người đàn ông trung niên rồi quay sang nói với Cảnh Ninh: “Em đứng đây đợi anh một lát.” Cảnh Ninh gật đầu, ba người đàn ông bèn ra sân trò chuyện.

Đứa bé nằm trong lòng bà Đồng, mút ngón tay nhìn Cảnh Ninh, đôi mắt to đảo quanh như hai viên thạch anh đen láy. Cảnh Ninh vươn ngón tay chạm vào gò má mập mạp của thằng bé, chỉ thấy trơn mướt.

Bà Đồng nói: “Nó một tuổi rưỡi rồi đấy.” Giọng điệu mang vẻ dò xét thân thiện, Cảnh Ninh đáp vâng.

Đôi mắt trong veo của bà Đồng có ánh thẹn thùng nhảy nhót. Bà Đồng đặt con lên chiếc bàn lớn, nâng cánh tay nhỏ của thằng bé lên, tập cho con đi, vừa giống một bà mẹ hạnh phúc, vừa như cô thiếu nữ thơ ngây. Vốn Cảnh Ninh có phần cáu giận vì lời lẽ thiếu suy nghĩ ban nãy của cô gái này, nhưng giờ thấy nụ cười vui vẻ xinh đẹp của cô, Cảnh Ninh lại sinh thiện cảm, cũng không so đo nữa.

Bà Đồng hỏi có phải Cảnh Ninh còn đang đi học không, nghe cô trả lời, vẻ ngưỡng mộ hiển hiện chẳng chút che lấp trên gương mặt bà Đồng. Cảnh Ninh không biết gia cảnh bà Đồng, nhưng nhìn vẻ mộc mạc chất phát của cô gái này, Cảnh Ninh có thể lờ mờ đoán được gia cảnh cô chắc phải bần hàn, chưa có cơ hội tới trường tới lớp. Cô gái còn trẻ nhưng phải lấy một người đàn ông giới giang hồ hơn mình nhiều tuổi, có lẽ là do cuộc sống ép buộc. Cảnh Ninh không khỏi thương xót, cất lời an ủi cô: “Đợi con lớn thêm một chút, không phải đích thân chăm sóc nữa là chị cũng có thể đi học.” Cảnh Ninh lại bảo, “Trường tôi sắp khai giảng rồi, tới lúc đó tôi sẽ hỏi thăm xem có lớp nào hợp với chị không, nếu rảnh chị có thể tới dự thính.”

Bà Đồng mừng rỡ, luôn miệng cảm ơn Cảnh Ninh, hỏi: “Cô Phan học đại học tại Vũ Xương sao?”

“Vâng, trường tôi dễ tìm lắm, ở ngay dưới núi Lạc Già, bên bờ Đông Hồ.”

“Vậy hay quá! Sau này nhất định tôi sẽ qua sông tìm cô!”

Nghe hai chữ “qua sông”, lòng Cảnh Ninh lại nhói đau, cô miễn cưỡng nở nụ cười, đáp: “Được.”

Bà Đồng vô cùng vui vẻ, cười khanh khách: “Tôi có một hiệu may ở gần thôn Di Hòa, khi nào có thời gian cô Phan tới cửa hiệu tôi chơi nhé, tôi sẽ may đồ cho cô.”

“Tôi không dám nhận đâu.”

“Cô Phan đừng khách khí với tôi, cô nhất định phải tới nhé!”

Cảnh Ninh chợt nghĩ tới một chuyện, cô hỏi: “Sao ngài Đồng lại bảo đào được chị dưới đất vậy?”

Rặng mây đen thoáng lướt qua gương mặt xinh đẹp của thiếu phụ, cô đưa mắt nhìn ngài Đồng Xuân Giang ngoài sân, ánh lệ lấp lánh trong mắt, cô gái cúi đầu nói: “Tôi từng bị người trong họ chôn sống, chồng tôi là ân nhân cứu mạng của tôi, anh ấy đối xử rất tốt với tôi.”

Cảnh Ninh kinh ngạc, không sao thốt nên lời. Lúc này, đứa trẻ chợt lao vào lòng bà Đồng, bập bẹ gọi mẹ, bà Đồng cầm khăn tay lau nước miếng cho con, niềm vui và sự bình yên dần ánh lên trên gương mặt thiếu phụ.

Cảnh Ninh ngơ ngác một lát, rồi chợt cảm thán: “Xem ra anh ấy nói đúng thật, chỉ cần còn sống là còn có hy vọng. Cuộc sống của chị hạnh phúc quá. Tôi cũng không thể từ bỏ.”

Bà Đồng không hiểu lời Cảnh Ninh cho lắm, nhưng vẫn mỉm cười gật đầu.

Ánh trăng trong trẻo sà xuống khoảng sân, những gốc cây sam bên phải bờ Thái Hồ sum suê, cây cỏ trong sân vườn vươn cành lá um tùm, trông đến là thú vị.

Thương nhân đang trò chuyện với Đồng Xuân Giang và Ngân Xuyên tên Chu Tự Xung, là phó tổng giám đốc của Hiệu bạc Phú Hưng. Đây là một hiệu bạc bề thế, được thành lập tại Khai Phong, Hà Nam vào năm đầu Dân Quốc. Người sáng lập Phú Hưng là một trong những sếp sòng ngành tài chính đất Hà Nam, Hứa Vân Chương, ông Hứa này từng làm đại lý xử lý nghiệp vụ xuất khẩu cho vài hiệu buôn Tây ngoại quốc, nhưng nghề chính vẫn là hối đoái. Hiệu bạc Phú Hưng quy mô đồ sộ, Bắc trải tới Bình Tân (*), Nam với đến Ninh Hộ (**), Đông chạm sang Tân Phổ, Tây bước ra Du Châu (***), sở hữu hơn tám trăm nhân viên, có chi nhánh tại cả Hán Khẩu, Thượng Hải lẫn Thiên Tân. Nhưng năm Dân Quốc 19, tư bản tài chính quan liêu bắt đầu tiến vào nội địa, các hiệu bạc tư nhân liên tục bị chèn ép, gạt bỏ khỏi cuộc chơi, nội bộ Phú Hưng cũng gặp phải khủng hoảng, vốn lưu động thiếu hụt trầm trọng, vừa khéo trước đó có một đợt người dân đổ xô đi đổi tiền mặt, khiến hiệu bạc chịu tổn thất nặng nề. Lần này Chu Tự Xung tới đây cũng vì hay tin có người đã rót một khoản vốn khổng lồ vào chi nhánh Hán Khẩu.

(*) Bình Tân: Chỉ Bắc Kinh và Thiên Tân

(**) Ninh Hộ: Chỉ Nam Kinh và Thượng Hải

(***) Du Châu: Nay là Trùng Khánh

Sự tình được tiến hành rất lặng lẽ, người rót vốn đã ủy thác những bước bàn bạc đầu cho Đồng Xuân Giang. Đoán người này là thành viên hội kín nên Chu Tự Xung hành sự rất cẩn trọng, lo có vướng mắc về mặt pháp luật, bị chính phủ lôi đầu gán tội. Nhưng xem bản hợp đồng phía đầu tư soạn thì thấy vốn được rút từ một tài khoản ngân hàng Ý, không có vấn đề gì, dường như nhà đầu tư cũng có kiến thức tài chính hết sức phong phú. Có thể khẳng định, phía sau người này có một lão làng trong nghề đứng bên tham mưu.

Ngày đầu tiên Chu Tự Xung tới Hán Khẩu, Ngân Xuyên đã đứng ra cùng Đồng Xuân Giang chiêu đãi ông ta một bữa tiệc đón khách, địa điểm chính là tại “Dữ Kỳ Trai” nổi danh này. Chu Tự Xung đã sớm nghe danh cậu cả nhà họ Phan, không chỉ vậy, em trai ruột ông ta – Chu Tự Sầm còn là bạn cùng phòng của Ngân Xuyên tại Oxford, vừa nói chuyện đã rất mực ăn ý. Ngân Xuyên nói năng nhã nhặn thong dong, khí chất chín chắn vững vàng, khiến Chu Tự Xung vô cùng ấn tượng, thấy có vẻ anh và Đồng Xuân Giang cũng rất thân thuộc, Chu Tự Xung đoán chừng chàng công tử dịu dàng như ngọc mà không kém phần thông minh khôn khéo này có quan hệ với nhà đầu tư của hiệu bạc. Nhưng đối phương không nói rõ, Chu Tự Xung cũng chỉ có thể giả hồ đồ.

Lúc này, ba người đang đứng ngoài sân, trao đổi vài giai thoại lý thú về thương giới, Chu Tự Xung cười: “Em trai tôi có hay kín đáo khen cậu Phan sở hữu tài kiếm tiền bẩm sinh. Thằng bé nói năm ấy khi du học ở Anh, cậu Phan còn có cơ hội kinh doanh nghề tay trái.”

Ngân Xuyên phì cười: “Anh Chu chớ nhắc tới chuyện này, giờ nghĩ lại tôi cũng thấy ngượng chín mặt.”

Đồng Xuân Giang mỉm cười: “Tôi lại muốn nghe xem một cậu du học sinh có thể kinh doanh gì nơi đất khách đấy.”

Chu Tự Xung nói: “Cậu Phan thu mua một xưởng xay bột tại London, năm nào cũng nhập đậu nành, nghiền thành sữa bán cho du học sinh Trung Quốc. Khi ấy tôi nghe mà rất mừng, cảm thấy chàng trai này thật thú vị, có bản lĩnh tự tạo ra con đường kinh doanh riêng.”

Ngân Xuyên cười: “Dù khi ấy cha tôi cắt mất khoản hỗ trợ kinh tế nhưng nhờ học bổng của hiệu buôn Tây mà cuộc sống của tôi vẫn khá dư dả. Hay tin có một xưởng xay bột gia đình bị bỏ không, tôi bèn vay ít tiền, mua lại nơi này, cho các hộ làm nông thuê làm nhà kho, nhưng cối xay để đấy không dùng lại phí, tôi thấy vậy mới mời người về xay sữa đậu. Nhưng làm vậy không phải vì muốn kiếm tiền, vài bình sữa đậu nành đổi được bao nhiêu tiền đây? Tôi chỉ làm cho mình và bạn bè uống thôi.”

Mọi người cùng bật cười, Chu Tự Xung ngó đồng hồ, nói: “Cũng không còn sớm nữa, tôi xin cáo từ trước, ngài Đồng, chúng ta giữ liên hệ, thoải mái trao đổi chuyện sau này nhé.”

Đồng Xuân Giang và Ngân Xuyên tiễn Chu Tự Xung, sau khi ông ta lên xe rời đi, Đồng Xuân Giang mới cất lời đầy ẩn ý: “Dữ Kỳ Trai chiêu đãi không biết bao nhiêu khách quỷ, ai nấy đều không ngớt lời ca ngợi món ăn nơi đây, rất mực tò mò với người chủ đứng sau. Tôi cũng rất hiếu kỳ, không biết đến bao giờ mới được diện kiến ông chủ Trịnh bí ẩn nọ đây?”

Ngân Xuyên đưa mắt nhìn ra phòng khách, thấy bà Đồng đang trao đứa trẻ cho Cảnh Ninh, cô bế đứa bé, trêu đùa nó, khóe môi khẽ cong, vẻ mặt dịu dàng.

Nỗi ảo não chất đầy tim Ngân Xuyên, anh buột miệng: “Tôi cũng mong được gặp anh ta, càng nhanh càng tốt.”

Có tiếng bước chân vọng lại từ phía sau. Hai vị khách bước vào sân, đi trước là Lưu Ngũ – tùy tùng luôn theo sát Đồng Xuân Giang. Lưu Ngũ nhanh chân tiến lên, chắp tay chào hỏi Ngân Xuyên, rồi ghé lại gần Đồng Xuân Giang, thì thầm vài câu. Ngân Xuyên quay đầu nhìn người phía sau Lưu Ngũ, chỉ thấy vóc người chàng trai nọ rất bắt mắt, đứng cạnh hòn núi giả, gương mặt bị che khuất bởi bóng đổ. Ánh mắt người này sáng trong, trông đường nét mờ mờ của gương mặt, có thể thấy đây là một thanh niên vô cùng tuấn tú. Chỉ tiếc anh chưa từng gặp người này, không biết lai lịch ra sao. Đồng Xuân Giang thoáng biến sắc, ông cười bảo Ngân Xuyên: “Tôi phải tiếp đón một người bạn cũ, không nán lại trò chuyện cùng cậu Phan được.” Rồi ông lại bảo, “Vợ tôi không có nhiều bạn bè, xem ra cô ấy và cô Phan cũng hợp ý nhau, cậu cứ để họ tâm sự một lát cho quen.”

Ngân Xuyên cười, gật đầu: “Vậy tôi vào uống thêm chén trà rồi đi.”

Đồng Xuân Giang gật đầu chào anh, đưa mắt nhìn Ngân Xuyên bước vào nhà rồi mới đi theo thanh niên nọ.

- -----oOo------