Quốc vương Nepal mời bọn họ giúp sức bắt phản tặc phản quốc, Nhã Đức Tinh muốn cưới được công chúa, Mạch Sĩ Già Nam muốn lấy lại pháp trượng, cả hai đều đồng ý, chỉ còn Quế Hoa Sinh đang do dự. Y suy nghĩ một chút rồi nói:
- Giúp quý quốc trừ gian là việc phải làm, nhưng tôi không mong được đền đáp gì cả.
Quốc vương vui mừng, gọi người mang đến ba thớt ngựa Ả Rập tốt nhất, bảo vương tử dẫn bọn họ đuổi theo phản tặc.
Ra khỏi cung môn, vương tử nói:
- Quốc sư bỏ trốn nhất định sẽ đi qua hạp khẩu Hà Đức Ngõa. Hạp khẩu nằm ở phía nam, cách núi Thụy Dương Bố mười dặm, đi tiếp là đến núi Thụy Chi. Khi các vị vào kinh đều đã đi qua núi Thụy Dương Bố, nhất là Quế tiên sinh đã từng đến dinh Tổng đốc dưới chân núi, chắc chắn rất quen đường. Phiền Quế tiên sinh dẫn đường truy đuổi, đến Phong Hỏa đài trên núi, ta sẽ đốt lửa làm hiệu, để quan quân giữ cửa cùng hợp sức.
Quế Hoa Sinh trong lòng hơi động, Nhã Đức Tinh đã nhanh miệng nói:
- Đã như vậy, xin cứ tự nhiên, ta cũng biết đường đến hạp khẩu Hà Đức Ngõa.
Ba con tuấn mã phi như bay, chưa đến nửa canh giờ đã đến chân núi Thụy Dương Bố. Ba người thấy dinh phủ của Tổng đốc Ngự lâm quân đã chìm trong biển lửa, Quế Hoa Sinh nhủ thầm, "Vương tử này đoán không sai, hồng y phiên tăng quả nhiên đã bỏ chạy, không biết Đề Ma Đạt Đa có đi theo hay không?"
Y đang định nói với Mạch Sĩ Già Nam, nhưng con ngựa của gã đã nhanh chân chạy trước, Quế Hoa Sinh đuổi theo hồi lâu vẫn không kịp.
Hừng đông ló dạng nơi chân trời phía đông, Quế Hoa Sinh nhớ đến tao ngộ ly kỳ tối qua, tâm tư còn đang ngập ngừng thì chợt nghe giọng Mạch Sĩ Già Nam vang lên phía trước:
- Mau đến đây, ta đã nghe thấy tiếng xe ngựa của bọn chúng!
Vương tử Ấn Độ ra roi, thúc tuấn mã như gió, dường như sợ Quế Hoa Sinh tranh công của gã, chạy trước Quế Hoa Sinh như muốn cản đường đối thủ. Quế Hoa Sinh khẽ mỉm cười, phóng mắt nhìn ra xa, hai ngọn núi phía trước chụm đầu vào một chỗ, ở giữa là hẻm núi nhỏ hẹp. Hà Đức Ngõa nghĩa là "Kiếm Phách Khẩu", tình thế hẻm núi ngoằn ngoèo thăm thẳm, không thể nhìn xa được, nhưng đúng là có tiếng xe ngựa lăn bánh trong đó.
Trong ba người, Mạch Sĩ Già Nam lớn lên trên thảo nguyên Thanh Hải, thuật kỵ mã tốt nhất, gã xông lên trước, tiến vào cốc khẩu, chưa đầy một khắc đã đuổi kịp chiếc xe ngựa. Mạch Sĩ Già Nam hét lớn một tiếng, thiền trượng to như cái đấu quét ngang thùng xe. Mấy thớt ngựa hoảng sợ dựng chân hí lên, xe ngựa nghiêng ngả, châu báu vàng bạc trên xe ào ào rơi xuống đất. Có lẽ trước khi nổi nửa đốt dinh Tổng đốc, Ma Lan pháp sư đã lấy hết của cải mang theo.
Mạch Sĩ Già Nam vỗ yên mấy con ngựa, bước đến cạnh xe, quát lên:
- Còn không mau lăn ra đây cho ta?
Một tay nắm ách xe, thiền trượng trong tay còn lại sắp đánh vào thùng xe thì chợt trong xe có tiếng người cười lạnh:
- Ngươi là kẻ nào dám to gan gào thét trước mặt ta?
Mui xe bật lên, một pháp sư người Ả Rập, râu mép cong vểnh, nhô người ra. Mạch Sĩ Già Nam không nhận ra Đề Ma Đạt Đa, gã ngẩn người ra, đang định xin lỗi thì cảm thấy một luồng lực mạnh như sóng thần ập đến. Mạch Sĩ Già Nam giật mình, giơ thiền trượng chặn lại. Chỉ nghe keng một tiếng, hổ khẩu của gã đã rách toạc, thiền trượng bắn lên trời cả thước, Mạch Sĩ Già Nam chỉ thấy trời đất quay cuồng, ngã ngồi xuống đất. May thuật kỵ mã của gã vô song thiên hạ, khi rơi xuống đất vẫn còn móc chân vào bàn đạp yên ngựa. Con ngựa kia bỏ chạy, kéo gã đi hơn mười trượng mới hí lên gục xuống. Hóa ra con ngựa này đã bị Đề Ma Đạt Đa đánh nứt sọ, may mà Mạch Sĩ Già Nam nhanh nhẹn tránh được, lại thêm có con ngựa cản được phần lớn chưởng lực, tuy gã rơi vào hôn mê nhưng vẫn còn toàn mạng.
Đúng lúc này, khoái mã của Nhã Đức Tinh đã chạy đến, gã nghe tiếng hét thảm của Mạch Sĩ Già Nam, không cần đoán cũng biết đã bị độc thủ. Nhã Đức Tinh không chờ thêm được nữa, chân đạp lên lưng ngựa, tay rút chùy sắt, lăng không đánh xuống chiếc xe ngựa kia.
Đề Ma Đạt Đa lên tiếng:
- Vương tử thật không biết tốt xấu, mau tránh ra cho ra.
Song chưởng cùng phát, Nhã Đức Tinh bị chưởng lực đối phương chấn đến nghiêng ngả cả người, vội vàng lộn một vòng nhảy ra sau hơn một trượng. Chùy sắt trong tay gã vuột khỏi tay, nện vào mui xe ngựa khiến nó vỡ tan. Nhã Đức Tinh định thần nhìn lại, thất thanh kêu lớn:
- Đề Ma Đạt Đa, thì ra là ngươi!
Ba năm trước, Đề Ma Đạt Đa từng đến Ấn Độ bái kiến Long Diệp đại sư, muốn luận bàn võ công với Long Diệp đại sư, đại sư chỉ nói về Phật pháp với lão một chút, lúc đó Nhã Đức Tinh đang ở cạnh bên, có nhìn thấy mặt Đề Ma Đạt Đa.
Ban nãy, một là vì nể mặt Long Diệp đại sư, hai là vì thân phận của Nhã Đức Tinh nên Đề Ma Đạt Đa chỉ phát ra năm phần chưởng lực, thấy Nhã Đức Tinh không bị ngã xuống, lão cũng thầm kinh ngạc.
Nhã Đức Tinh thấy đối thủ là Đề Ma Đạt Đa, trong lòng hơi hoảng sợ, nhưng vì công chúa Nepal, gã không chịu tay không mà về, liền nói:
- Ta phụng mệnh quốc vương Nepal, đến đây bắt giữ Ma Lan pháp sư.
Lúc này nắp xe đã không còn, ai cũng thấy Ma Lan pháp sư đang ngồi trong xe cùng châu báu vàng bạc.
Đề Ma Đạt Đa cười lạnh:
- Có ta ở đây, ai dám bắt hắn? Ta chu du các nước, quốc vương các nơi còn nể mặt ta mấy phần. Ngươi mau quay về đi.
Nhã Đức Tinh hơi do dự, bước tới một bước:
- Để ta mang người đi, ngươi hãy đến gặp quốc vương cầu xin, chuyện đó ta không quản.
Đề Ma Đạt Đa nhìn ra xa, thấy Quế Hoa Sinh đã sắp vào đến hẻm núi, liền trầm giọng gằn từng chữ:
- Trong đời ta không biết đến hai chữ "cầu xin"!
Nói xong lão nhảy xuống đất, song chưởng tiếp tục đánh về phía Nhã Đức Tinh. Hóa ra lão thấy Quế Hoa Sinh sắp đến, nếu y liên thủ với Nhã Đức Tinh thì dù lão có thắng cũng phải tốn một, hai canh giờ. Đêm dài lắm mộng, đến lúc ấy có thể sẽ liên lụy Ma Lan pháp sư, chẳng những tổn hại uy danh bản thân mà còn phụ sự nhờ cậy của vương tử Nepal. Lão muốn tốc chiến tốc thắng, đánh bại Nhã Đức Tinh trước nhất.
Công phu Du Già của Nhã Đức Tinh đã luyện đến sáu bảy thành, Đề Ma Đạt Đa lại không dùng hết sức, song chưởng khua một vòng, chụp lấy bả vai gã, bị gã dùng công phu bản thân khiến cơ bắp dịch chuyển, đòn đánh của Đề Ma Đạt Đa trượt mục tiêu. Nhã Đức Tinh không chỉ tá lực đả lực, còn trả lại cho lão một chiêu. Đề Ma Đạt Đa nổi giận, chưởng lực tăng lên tám phần, đẩy tới trước một cái, thân hình Nhã Đức Tinh cũng nhoáng một cái, tránh sang một bên. Gã không kịp hít thở, nhưng đã thoát được đòn đánh. Gã xoay người rút đoản kiếm bên hông ra, thừa lúc Đề Ma Đạt Đa vừa hết chiêu số, song chưởng chưa kịp rút về, đoản kiếm chém vào tay lão nhanh như điện. Lúc này khoái mã của Quế Hoa Sinh cũng đã chạy đến nơi.
Mắt thấy kiếm sắp chém trúng mực tiêu, đột nhiên Đề Ma Đạt Đa quát to một tiếng, cánh tay dài ra thêm mấy tấc. Nhã Đức Tinh kinh hãi vô cùng, đánh rơi đoản kiếm, cảm giác như trước ngực sau lưng đều có cường lực bức tới, gã chịu không nổi, nhất thời rơi vào hôn mê.
Quế Hoa Sinh nhảy xuống ngựa, rút Đằng Giao bảo kiếm, bước từng bước đến trước mặt Đề Ma Đạt Đa. Đề Ma Đạt Đa cười nói:
- Chỉ có một mình ngươi sao? Kẻ dùng Băng Phách thần đạn giúp ngươi đã biến đi đâu rồi?
Quế Hoa Sinh thầm kinh ngạc, tối qua y đã nghi ngờ hơi lạnh bất ngờ xuất hiện kia có phải có nguồn gốc từ băng quật hay không, nay được Đề Ma Đạt Đa chứng thực, quả nhiên chính là Băng Phách thần đạn. Đề Ma Đạt Đa là đại tông sư võ học, nếu lão đã bảo đó là Băng Phách thần đạn thì không còn gì nghi ngờ nữa. Nếu như vậy thì bạch y thiếu nữ chính là công chúa Nepal sao? Nếu không phải như thế thì Băng Phách thần đạn từ đâu mà ra?
Đang lúc Quế Hoa Sinh suy nghĩ rất lung thì chưởng lực dồn tới. Y cả kinh, vội vàng phi thân lên cao tránh thoát. Một chiêu Thiên Hà Đảo Quải trả lại cho đối phương, Đằng Giao bảo kiếm hóa thành một vệt sáng chém xuống.
Dù Quế Hoa Sinh nhanh nhẹn trả chiêu thì cũng đã rơi xuống hạ phong. Đề Ma Đạt Đa chiếm được tiên cơ, thế công như sông dài sóng lớn cuồn cuộn ùa đến. Hết năm mươi chiêu, Quế Hoa Sinh dần cảm thấy đầu váng mắt hoa, hơi thở nặng nề, còn mệt hơn trận đấu trong dinh phủ Tổng đốc. Cuộc chiến hôm đó, Đề Ma Đạt Đa chưa hề có thâm cừu đại hận với Quế Hoa Sinh, không phát tiết hết sức lực. Lúc này, lão vừa muốn báo thù một kiếm hôm qua, vừa phải hộ tống Ma Lan pháp sư thoát hiểm nên ra tay không chút lưu tình. Hôm đó Quế Hoa Sinh qua trăm chiêu mới bắt đầu mệt, lúc này mới chỉ nửa đường đã cảm thấy khó mà ứng phó được.
Quế Hoa Sinh dựa vào thân pháp nhanh nhẹn linh hoạt của mình, vừa thấy không ổn thì định dùng lại chiến thuật hôm qua du đấu với đối thủ. Y xoay người một cái, tức thì ánh bạc lấp lánh khắp người, bốn phương tám hướng đâu đâu cũng là bóng của y, tung hoành ngang dọc trong chưởng phong của Đề Ma Đạt Đa.
Chuyện này vốn nằm trong dự liệu của Đề Ma Đạt Đa, lão định dùng chưởng lực âm nhu để tiêu hao khí lực Quế Hoa Sinh, khiến y muốn thoát cũng không được. Hai người đấu một lúc, bỗng Đề Ma Đạt Đa quát to một tiếng, song chưởng đẩy một cái, công lực cả một đời tụ vào một chưởng đánh ra. Đột nhiên ánh kiếm như thủy ngân tràn ra mặt đất, điểm điểm tinh quang lấp lánh. Một chưởng của Đề Ma Đạt Đa đánh tan ánh kiếm hộ thân của Quế Hoa Sinh, lão đắc ý cười lớn, thừa thắng xông lên, Âm Dương chưởng lực như gió to sóng lớn dẫn Quế Hoa Sinh xoay vòng vòng như chiếc thuyền nhỏ trong giông bão.
Ngay trong thời khắc nguy hiểm đó, đột nhiên một luồng lực nhu hòa theo gió núi mà đến, chính là tiếng địch Quế Hoa Sinh nghe được trong thành ma quỷ. Quế Hoa Sinh cảm thấy phấn chấn, đâm ra ba kiếm như gió, kiếm phong ào ạt, đánh tan bảy phần chưởng lực của Đề Ma Đạt Đa, áp lực đè lên người y giảm đi nhiều.
Đề Ma Đạt Đa nghe tiếng địch, hơi e ngại trong lòng, mắt liếc ngang, thấy Ma Lan pháp sư bỗng nhảy xuống xe ngựa, phóng lên con tuấn mã của Nhã Đức Tinh gần đó. Hắn lớn tiếng nói với Đề Ma Đạt Đa:
- Xin thứ lỗi, ta đi trước đây, hẹn gặp lại.
Nói rồi ra roi như điên, khoái mã phóng như bay, trong phút chốc đã gần ra khỏi hẻm núi.
Đề Ma Đạt Đa thầm khó chịu trong lòng, lại thêm nghi hoặc, cho rằng Ma Lan pháp sư sợ hãi thứ gì đó, được lão bảo vệ mà vẫn còn hồn phi phách tán bỏ chạy thoát thân. Đang mải nghĩ ngợi thì tiếng địch ngừng lại, một thiếu nữ như tiên tử hạ phàm xuất hiện, áo trắng bồng bềnh như mây. Chỉ nghe Quế Hoa Sinh mừng như điên, lớn tiếng gọi:
- Muội muội!
Bạch y thiếu nữ mỉm cười dịu dàng:
- Huynh không quản mạo hiểm đi bắt Ma Lan, muội cảm kích vô cùng.
Nói rồi xoay người đối diện với Đề Ma Đạt Đa, nghiêm giọng lạnh lùng:
- Người Nepal xưa nay vốn hiếu khách, nhưng kẻ hung hăng càn bậy như ngươi không được chào đón ở đây, ngươi đi đi!
Đề Ma Đạt Đa đã đi qua nhiều nước, vương công quý tộc chỉ cần nghe đồn lão đến thì nghênh tiếp rất long trọng, chưa từng nếm mùi vị bị lạnh nhạt như thế này. Lão giận tím mặt, quát lớn:
- Tiểu nha đầu vô lễ, có biết ta là thượng khách của vương tử các ngươi không?
Bạch y thiếu nữ trả lời:
- Tôn trọng người khác mới được người khác tôn trọng lại, Ở xứ Ả Rập của ngươi không phải cũng có câu ngạn ngữ này sao? Khách lạ đến nhà người khác càng nên thủ lễ, quốc vương của ta lùng bắt Ma Lan, vì sao ngươi cản lại? Một người khách như vậy có phải là đã quá vô lễ rồi không?
Quế Hoa Sinh bỗng kêu to:
- Muội muội, cẩn thận!
Hóa ra Đề Ma Đạt Đa bị nàng nói đến nỗi tức giận, thất khiếu bốc khói, không chờ nàng dứt lời đã đánh tới. Quế Hoa Sinh vội vung kiếm xông đến, nhưng cô gái kia đã nương theo chưởng phong bật người lên cao, tư thế đẹp mắt, vẻ mặt thong dong, còn mỉm cười ngọt ngào nói với Quế Hoa Sinh:
- Đa tạ huynh đã quan tâm.
Đề Ma Đạt Đa thấy thân pháp nàng ta ảo diệu như vậy cũng kinh ngạc vô cùng, chưởng trái đẩy kiếm của Quế Hoa Sinh ra ngoài, chưởng phải đánh lên cao, muốn kéo bạch y thiếu nữ xuống đất.
Đúng lúc đó, mấy viên trắng trắng như trân châu từ tay nàng bắn ra, rơi xuống đất, bị chưởng phong chấn nát thành phấn, hàn khí bốc lên. Đề Ma Đạt Đa rùng mình lùi lại ba bước, lớn tiếng:
- Hóa ra kẻ dùng Băng Phách thần đạn ám hại ta chính là nha đầu này!
Quế Hoa Sinh vừa thấy bạch y thiếu nữ xuất hiện đã sớm điều hoà chân khí chuẩn bị chống đỡ kỳ hàn. Nội công của y là nội công Phật môn thuần khiết do Đạt Ma sư tổ truyền lại, hơn nữa, y đã từng vào băng quật, có kinh nghiệm với hàn khí này nên Băng Phách thần đạn không ảnh hưởng đến y. Nhưng Đề Ma Đạt Đa bị trúng băng đạn bất ngờ, lại chỉ rùng mình mấy cái, khiến Quế Hoa Sinh và thiếu nữ kia đều bội phục thầm, " Đệ nhất cao thủ Ả Rập quả nhiên danh bất hư truyền!"
Tối qua, Đề Ma Đạt Đa một tay níu xe ngựa, một tay tấn công đối thủ, không tiện di chuyển, bỗng bị Băng Phách thần đạn bắn trúng huyệt đạo, nên Quế Hoa Sinh mới có cơ hội chém lão một kiếm. Lúc này mọi người đứng trên đất bằng, lão lại phóng tay mà đánh, tuy Quế Hoa Sinh có cơ hội tấn công nhưng trong chưởng phong ào ạt của đối thủ thì y có thể thủ thắng hay không?
Bạch y thiếu nữ nhẹ nhàng đáp xuống đất, cười nói:
- Huynh nhìn thử xem, Băng Phách Hàn Quang kiếm của muội đã thành hình rồi!
Nói rồi rút ra một vật sáng lấp lánh, không phải vàng, không phải sắt, mà là trường kiếm làm từ hàn băng, quả thật là kỳ trân dị bảo độc nhất vô nhị!
Băng Phách Hàn Quang kiếm vừa vung lên, hàn khí lập tức lan tỏa bốn phía. Đề Ma Đạt Đa nghiến răng, song chưởng liên hoàn đánh ra, quét sạch khí lạnh. Bạch y thiếu nữ dùng Băng Hà kiếm pháp, mỗi chiêu kiếm mang theo một luồng gió lạnh thấu xương, lại thêm Đằng Giao bảo kiếm của Quế Hoa Sinh cũng là thần vật hiếm có trên đời. Hai người liên thủ với nhau, cao thủ trên thế gian còn ai có thể đối địch được?
Qua hơn trăm chiêu, hàn khí càng lúc càng dày đặc. Khí lạnh từ thanh kiếm hàn ngọc ngàn năm phát ra đã đóng băng cây cỏ xung quanh. Chưởng phong của Đề Ma Đạt Đa tuy ào ạt nhưng cũng khó xua tan hết. Mồ hôi to bằng hạt đậu đọng trên trán lão, Đề Ma Đạt Đa bắt đầu run rẩy cả người.
Lão là đại hành gia võ học, nghĩ thầm, "Nếu ta vận chân khí chống đỡ thì dù có chịu được thêm một, hai canh giờ, thắng bại thế nào khó mà đoán biết, lại còn bệnh thêm một trận. Ma Lan pháp sư đã chạy trốn, ta cần gì bán mạng cho hắn?"
Nghĩ vậy, lão ngưng tụ chân lực vào lòng bàn tay, một chưởng cực mạnh phát ra, tìm được kẽ hở trong lưới kiếm vây bủa xung quanh, lập tức nhanh chân bỏ chạy. Quế Hoa Sinh thấy lão khổ chiến nửa canh giờ giữa hàn khí âm lãnh mà công lực vẫn dồi dào như vậy, không khỏi ngẩn ra.
Lúc này mặt trời đã nhô lên, ánh nắng óng ánh từ trên cao chiếu xuống, phản xạ trên mặt tuyết trắng lóng lánh. Khí lạnh dần tiêu tan dưới ánh mặt trời, sương mù trong lòng Quế Hoa Sinh cũng như khí lạnh bị gió xuân thổi tản mát đi mất.
Y nhẹ giọng hỏi:
- Đây là mộng phải không?
Công chúa cười nói:
- Tất nhiên là không!
Quế Hoa Sinh nói tiếp:
- Ta thật không đoán ra muội chính là công chúa!
Công chúa cười đáp:
- Chẳng trách tối qua huynh còn chúc mừng vương tử Ấn Độ. Chà, đại ca ca, huynh thật ngốc, lẽ ra huynh phải sớm đoán được!
Khuông mặt thiếu nữ ửng hồng, càng thêm xinh đẹp, khiến Quế Hoa Sinh nhìn không chớp mắt.
Một lát sau, y ủ ê nói:
- Muội là công chúa một nước, lại là nữ vương tương lai, ta sao dám trèo cao, xem muội là muội muội?
Công chúa cười nói:
- Huynh sao lại nhìn việc bằng con mắt trần tục như thế? Muội tình cờ sinh trưởng trong nhà đế vương thì có ảnh hưởng gì đến giao hảo của hai ta? Chà, huynh thật không hiểu được tâm ý của muội, muội mà lại muốn làm nữ vương gì đó hay sao? Vàng bạc châu báu, phú quý vinh hoa chỉ là phù vân, muội chỉ mong, chỉ mong...
Quế Hoa Sinh vui mừng, cảm giác trong lòng đầy ngọt ngào lưu luyến, thốt lên:
- Đãn nguyện nhân trường cửu,
Thiên lý cộng thiền quyên.
(*) hai câu cuối trong bài Thuỷ điệu ca đầu - Trung thu của Tô Thức
但願人長久,
千里共嬋娟。
(Những mong người lâu dài,
Ngàn dặm cùng chung vẻ đẹp của trăng.)
Xin mời xem thêm:
Công chúa vén tóc mây, cúi mặt thẹn thùng không nói gì. Một lúc sau, nàng thì thầm:
- Muội lén phụ vương trốn ra ngoài, người bệnh mới hết, muội phải về chăm sóc. Cám ơn tuyết liên Thiên Sơn của huynh.
Quế Hoa Sinh nhớ đến những chuyện ly kỳ tối qua, liền nói với công chúa:
- Muội hãy cẩn thận đề phòng đường huynh của muội.
Công chúa đáp:
- Muội đã sớm biết hắn có dã tâm, kỳ thật muội không muốn tranh vương vị với hắn nên chuyện ở thành ma quỷ, muội không kể lại cho phụ vương. Muội định âm thầm diệt trừ âm mưu của hắn, như vậy tốt hơn.
Quế Hoa Sinh thở dài:
- Muội thật là người tốt, chỉ sợ dã tâm của hắn không chỉ có vậy.
Công chúa hỏi:
- Vậy sao? Không phải hắn chỉ muốn làm quốc vương thôi sao?
Kinh nghiệm giang hồ của Quế Hoa Sinh hơn Hoa Ngọc công chúa nhiều, đương nhiên y hiểu nhân tình thế thái, chỉ nhủ thầm, "Chuyện muội không muốn làm nữ vương thì hắn đâu có biết!"
Từ những dấu vết mờ nhạt tối qua, Quế Hoa Sinh đã nghi ngờ vương tử Nepal có dính líu đến việc hạ độc quốc vương, nhưng chưa dám khẳng định. Bản thân vừa mới đến Nepal, không quen thân với ai, lại không muốn dính líu tới quốc sự của bọn họ, cho nên lời ra đến cửa miệng phải nuốt xuống, chưa dám nói cho công chúa biết.
Công chúa ngẩng đầu lên, nhỏ nhẹ nói:
- Hạp khẩu bên kia đã đốt phong hỏa đài, bọn họ chắc đã biết chuyện các huynh đang đuổi bắt Ma Lan pháp sư. Một lát nữa có thể bọn họ sẽ tới đây, muội nên đi rồi.
Quế Hoa Sinh bước lên một bước:
- Khi nào chúng ta gặp lại?
Công chúa mỉm cười nói:
- Huynh nên đọc kinh văn điển tích Nepal nhiều một chút!
Quế Hoa Sinh ngẩn người, bỗng bừng tỉnh, thốt lên:
- A, là muội muốn ta ứng thí, vậy chúng ta sẽ gặp lại trên lôi đài. Xin muội hạ thủ lưu tình với ta!
Vừa dứt lời thì công chúa đã đi mất. Quế Hoa Sinh ngẩn ngơ nhìn theo bóng lưng của nàng thì chợt nghe có tiếng rên rỉ.
Quế Hoa Sinh giật mình, nghĩ thầm, "Mạch Sĩ Già Nam và Nhã Đức Tinh đều bị trọng thương, sao ta lại quên mất bọn họ được chứ?"
Lúc này Mạch Sĩ Già Nam đã tỉnh dậy, tiếng rên rỉ kia là của gã. Quế Hoa Sinh tháo chân gã ra khỏi yên cương, dời gã ra xa con ngựa đã chết, lại xem xét kỹ càng, tuy Mạch Sĩ Già Nam gãy mất hai xương sườn, nhưng đó là ngoại thương, không nghiêm trọng lắm. Khi Đề Ma Đạt Đa phát chưởng giết chết con ngựa đã hết đà, chưởng phong chạm vào thân thể Mạch Sĩ Già Nam nhưng không làm gã tổn thương nội tạng. Quế Hoa Sinh xoa bóp cho gã một lúc, một lát sau Mạch Sĩ Già Nam đã có thể đứng lên đi lại.
Mạch Sĩ Già Nam vung tay giơ chân giãn gân cốt, líu ríu nói:
- Lão già đó thật là lợi hại!
Hai người cùng đến xem vương tử Nhã Đức Tinh, không khỏi kinh hoảng. Gương mặt Nhã Đức Tinh vàng ệch như giấy, môi xám xịt, hơi thở mong manh. Mạch Sĩ Già Nam biết một chút y lý, liền bắt mạch cho gã rồi lắc đầu nói:
- Không xong rồi, kinh mạch Nhã Đức Tinh bị chấn động, ngũ tạng dịch chuyển, thần tiên cũng khó cứu, chỉ còn sống được nửa canh giờ nữa.
Quế Hoa Sinh nhìn chăm chú một lát rồi nói:
- Cũng chưa đến nỗi.
Nói rồi liền lấy ra một đóa tuyết liên, múc nước suối, vò nát cánh hoa cho vào nước rồi cạy miệng Nhã Đức Tinh đổ vào. Tuyết liên Thiên Sơn chẳng những có thể giải bách độc, lại còn có thể làm tan máu bầm trong cơ thể, máu bầm tan hết thì cơ thể trở lại bình thường. Chỉ là Nhã Đức Tinh bị thương quá nặng, trong thời gian ngắn vẫn chưa tỉnh lại được. Mạch Sĩ Già Nam thở dài:
- Ngươi uổng mất một đóa tuyết liên vô ích rồi, chỉ có thể kéo dài tính mạng của gã thêm mấy ngày.
Quế Hoa Sinh hít sâu một hơi, đột nhiên nói:
- Mạch Sĩ Già Nam, ta nhờ ngươi giúp ta một chuyện.
Mạch Sĩ Già Nam đáp:
- Chỉ cần ngươi nói ra, dù nhảy vào nước sôi lửa bỏng ta cũng đồng ý.
Quế Hoa Sinh gật đầu:
- Được, chúng ta dùng công lực bản thân liệu thương cho gã. Ta sẽ chỉ ngươi cách thôi cung hóa huyết. Trị thương cho gã xong, công lực của chúng ta sẽ tiêu hao rất nhiều, sẽ phải tĩnh dưỡng mấy ngày.
Mạch Sĩ Già Nam xúc động:
- Nội công của ngươi thâm hậu gấp trăm lần ta, ngươi không sợ hao tổn công lực thì ta nhất định tận sức mà làm.
Kỳ thật, bằng vào công lực của Quế Hoa Sinh đã có thể giúp Nhã Đức Tinh đả thông mười hai huyệt đạo trọng yếu, lại thêm sức Mạch Sĩ Già Nam, hiệu quả càng nhanh, chỉ qua một tuần trà, sắc diện Nhã Đức Tinh đã hồng hào hơn hẳn. Quế Hoa Sinh thở phào nhẹ nhõm, chợt nghe Mạch Sĩ Già Nam hỏi:
- Vị cô nương xinh đẹp ban nãy là ai?
Hóa ra gã đã tỉnh lại trước khi công chúa rời đi, nhìn thấy công chúa quốc sắc thiên hương nên mới hỏi như vậy. Quế Hoa Sinh mỉm cười đáp:
- Nàng ta à? Chính là công chúa! Cũng là chủ nhân của tiếng địch trong thành ma quỷ!
Mạch Sĩ Già Nam ôi chà một tiếng, bỗng im bặt, Quế Hoa Sinh hỏi:
- Sao vậy?
Mạch Sĩ Già Nam hỏi:
- Vậy tại sao ngươi phải phí hết tâm huyết cứu người này?
Quế Hoa Sinh vừa nghe đã hiểu, nhủ thầm, "Nếu ta là tiểu nhân, buông tay bỏ mặc Nhã Đức Tinh ở đây thì bớt được một kình địch cầu thân, nhưng sao ta có thể làm như vậy?"
Nghĩ đoạn nhìn Mạch Sĩ Già Nam, cười đáp:
- Ta tuy không dám tự cho mình là hiệp nghĩa, nhưng không thể thấy chết mà không cứu.
Mạch Sĩ Già Nam nói:
- Ta không phải là không muốn cứu, chỉ là khâm phục ngươi rộng lượng. Nếu như là ta...
Quế Hoa Sinh hỏi:
- Là ngươi thì sao?
Mạch Sĩ Già Nam suy nghĩ một chút, cười nói:
- Thì ta vẫn cứu gã.
Trong khi hai người đang nói chuyện thì Nhã Đức Tinh đã từ từ tỉnh lại, những lời đó đã lọt vào tai gã nhưng Quế Hoa Sinh không biết chuyện đó.
Quế Hoa Sinh đỡ gã dậy, bàn tay không rời huyệt Thiên Xu, truyền dương khí vào người Nhã Đức Tinh. Vương tử Ấn Độ ho khan rồi ói ra một ngụm máu bầm. Quế Hoa Sinh chờ gã nôn xong, đưa nước suối cho gã rửa miệng, cười nói:
- Ói ra máu bầm là tốt, dùng thêm nhân sâm, lộc nhung bồi bổ, trong nửa tháng sẽ khỏe lại. Những thứ thuốc đó tuy quý hiếm nhưng trong vương cung Nepal muốn bao nhiêu cũng có, vương tử, ngươi yên tâm đi!
Nhã Đức Tinh ứa lệ nhìn Quế Hoa Sinh, thần người ra không nói được câu gì.
Đúng lúc này, một thớt ngựa phi tới, là vương tử Nepal. Hắn vừa đến liền hỏi:
- Các ngươi thế nào rồi?
Quế Hoa Sinh đáp:
- Không có gì, chỉ có vương tử Nhã Đức Tinh bị thương một chút.
Vương tử Nepal hỏi tiếp:
- Thế còn...
Mạch Sĩ Già Nam đáp:
- Còn Đề Ma Đạt Đa à? Lão bị Quế đại ca đánh chạy cong đuôi rồi.
Thật ra Mạch Sĩ Già Nam không nhìn thấy Quế Hoa Sinh và Hoa Ngọc công chúa liên thủ đánh bại Đề Ma Đạt Đa. Quế Hoa Sinh suy nghĩ một chút, quyết định tốt hơn hết là cứ gạt vương tử tin như thế, liền mỉm cười nói:
- Tuy đuổi được Đề Ma Đạt Đa, nhưng lại để Ma Lan pháp sư chạy thoát.
Vương tử Nepal nghe bảo Quế Hoa Sinh đánh đuổi được cả Đề Ma Đạt Đa, không khỏi thầm giật mình, nhưng bản tính thâm trầm khiến hắn không lộ ra bên ngoài, chỉ cười lớn, nhảy xuống ngựa. Hắn cầm Cửu Hoàn tích trượng trên tay, cúi người nói với Mạch Sĩ Già Nam:
- Đây có phải là pháp trượng của Pháp vương không?
Mạch Sĩ Già Nam vui mừng nói:
- Đúng vậy! Đa tạ vương tử đã lấy lại pháp trượng cho giáo chúng bọn ta.
Vương tử Nepal đáp:
- Không chỉ lấy lại pháp trượng mà Ma Lan pháp sư cũng do ta giết chết.
Hóa ra vương tử lẻn vào cốc khẩu phía bên kia thung lũng, đó là con đường cụt. Hắn đoán Ma Lan pháp sư nhìn thấy phong hỏa đài nổi lửa, sẽ không dám đi ra từ phía chính diện, hắn cũng đã tính toán trong đầu từ lâu, nếu Ma Lan và Đề Ma Đạt Đa cùng đi ra thì sau khi lấy lại pháp trượng, hắn bảo bọn họ mau đào tẩu, nhưng chỉ có một mình Ma Lan đến, cho nên vừa thấy mặt đồng bọn, hắn liền giết người diệu khẩu. Hai người là đồng bọn, cùng nhau liên kết hạ độc quốc vương, Ma Lan tuyệt không ngờ rằng vương tử sẽ ra tay, bằng không, dựa vào võ công, vương tử chỉ có thể thủ hòa với hắn.
Mạch Sĩ Già Nam nhận pháp trượng, vương tử nói tiếp:
- Chúng ta nên về cung gặp quốc vương báo tin mừng! Dù pháp trượng do ta lấy lại, nhưng các ngươi đều có một phần công lao.
Nhã Đức Tinh Vương tử vừa mới tỉnh lại, thân thể cực kỳ yếu ớt, Quế Hoa Sinh liền đỡ gã lên lưng ngựa, ngồi phía sau gã, mọi người cùng trở lại kinh thành.
Đi được một lúc, Nhã Đức Tinh rên rỉ thở dốc, Quế Hoa Sinh vội vàng ghìm tuấn mã, để nó đi chậm rãi, thấp giọng hỏi:
- Ngươi cảm thấy thế nào?
Nhã Đức Tinh nói đứt quãng:
- Ta... sắp... không xong...
Quế Hoa Sinh đáp:
- Không có chuyện đó đâu. Ngươi cứ yên tâm.
Nhã Đức Tinh run giọng nói tiếp:
- Linh Thứu Sơn, Vương Xá thành, Long Diệp ân sư, sông Hằng vinh quang, xin vĩnh biệt!
Quế Hoa Sinh vội nói:
- Đừng nói lung tung, ngươi không được chết!
Nói rồi đưa tay sờ thử huyệt Thái Dương của gã, chỉ thấy nóng như thiêu, Quế Hoa Sinh cũng kinh hãi, thầm nghĩ, "Ta đã khai mở mười hai huyệt đạo cho gã mà vẫn không thể cứu được hay sao? Không, không phải như thế, công phu Du Già của gã không thấp, chỉ cần gã đừng nghĩ linh tinh thì không thể nào chết được."
Y đang định nói Nhã Đức Tinh trấn định tinh thần, chỉ thấy gã cứ lảm nhảm nói mê, Quế Hoa Sinh đang sốt ruột thì Nhã Đức Tinh mở mắt, run giọng nói:
- Xin ngươi giúp ta một chuyện.
Quế Hoa Sinh đáp:
- Xin nói.
Nhã Đức Tinh nói:
- Ta muốn có một đóa tuyết liên Thiên Sơn.
Quế Hoa Sinh ngẩn ra, cười nói:
- Máu bầm trong người ngươi đã tan hết, không cần đến tuyết liên nữa đâu.
Hai mắt Nhã Đức Tinh đỏ quạch, chỉ lẩm bẩm:
- Tuyết liên, tuyết liên, Thiên Sơn tuyết liên, ta muốn Thiên Sơn tuyết liên!
Thần sắc gã như đứa bé con đòi đồ chơi. Quế Hoa Sinh nhẹ nhàng dỗ dành:
- Vương tử, tỉnh lại đi, chúng ta về đến vương cung rồi.
Nhưng Nhã Đức Tinh vẫn nói mơ, dường như sốt cao kiến gã mê sảng, không ngừng lặp đi lặp lại:
- Tuyết liên, tuyết liên, Thiên Sơn tuyết liên!
Quế Hoa Sinh không đành lòng, liền lấy ra đóa tuyết liên còn lại, hai mắt Nhã Đức Tinh sáng rực, lẩm bẩm:
- Ta hao hết tâm lực tìm kiếm tuyết liên, nếu có một đóa tuyết liên chôn cùng thì chết mới nhắm mắt.
Quế Hoa Sinh nghĩ thầm, "Hóa ra gã có ý này."
Có vài người, nhất là các bậc đế vương, khi hấp hối thì chỉ muốn được chôn chung với vật yêu thích nhất của mình, Quế Hoa Sinh không ngờ Nhã Đức Tinh cũng có ý định đó.
Quế Hoa Sinh hơi do dự, y chỉ có ba đóa tuyết liên, một đóa cứu quốc vương Nepal, một đóa cứu Nhã Đức Tinh, hiện giờ chỉ còn lại một đóa. Y biết vương tử Nhã Đức Tinh không cần tuyết liên cứu mạng nữa, nhưng nhìn ánh mắt đầy khẩn cầu của gã thì nhủ thầm, "Ba Lặc lão tiên sinh đã nói, chữa bệnh cho bệnh nhân, việc quan trọng nhất là làm cho người ta an tâm. Nếu ta không đưa cho gã, chỉ sợ bệnh tình sẽ chuyển biến xấu. Chi bằng cứ cho gã trước."
Nghĩ rồi mỉm cười đưa đóa tuyết liên cuối cùng cho Nhã Đức Tinh.
Nhã Đức Tinh cầm tuyết liên, miệng nở nụ cười, dựa vào vai Quế Hoa Sinh nhắm mắt lại dưỡng thần, dáng vẻ bình yên vô cùng. Quế Hoa Sinh vui mừng giục ngựa đi nhanh, vừa đến cửa cung đã có người đón tiếp. Đó là do vương tử Nepal và Mạch Sĩ Già Nam về trước, báo cho quốc vương biết việc Nhã Đức Tinh vương tử bị trọng thương.
Thị vệ trong cung đặt Nhã Đức Tinh lên nệm gấm, đưa đến trước mặt quốc vương. Quốc vương đón tiếp mọi người, trước tạ ơn Quế Hoa Sinh, sau thăm hỏi tình trạng Nhã Đức Tinh. Nhã Đức Tinh bỗng mỉm cười, nhảy xuống khỏi nệm, thi lễ với quốc vương:
- Công chúa muốn Thiên Sơn tuyết liên, tôi đã mang đến rồi đây!
Quế Hoa Sinh kinh hãi, hóa ra ban nãy Nhã Đức Tinh giả vờ. Trong giây phút đó, trong lòng Quế Hoa Sinh vô cùng rối loạn, chỉ nghe quốc vương vui vẻ nói:
- Được, ta sẽ gọi cung nữ giao sính lễ cho tiểu nữ. Đây là ý của nó, nó không thể nói ngược.
Quế Hoa Sinh không nói nên lời, đỏ mặt tía tai, chợt Nhã Đức Tinh nói tiếp:
- Không, bệ hạ hiểu lầm rồi, Đây không phải sính lễ của ta, đóa tuyết liên Thiên Sơn này là của Quế tiên sinh. Võ công và nhân phẩm của Quế tiên sinh hơn ta gấp trăm lần, sánh đôi với công chúa thì đúng là một đôi người ngọc trong nhân gian.
Lời vừa nói xong, Quế Hoa Sinh cũng kín đáo thở phào, thầm nhủ, "Ta đúng là lấy dạ tiểu nhân đo lòng quân tử."
Chỉ thấy Nhã Đức Tinh vừa nói xong thì lảo đảo ngồi bệt xuống. Ban nãy gã đã hao hơi tổn sức, dù cố gắng thì cũng không chi trì được lâu.
Quốc vương biến sắc, nhìn Quế Hoa Sinh, chậm rãi nói:
- Vương tử Nhã Đức Tinh thần trí hôn mê, đã làm khó ngươi rồi. Quế tiên sinh lần này lập công lớn, ta nhất định sẽ không phụ ngươi. Ngươi cứ tùy ý chọn châu báu trong cung, thứ nào cũng được, nếu muốn quan tước, trẫm sẽ phong ngươi làm Tổng đốc Ngự lâm quân.
Quốc vương chỉ nhắc tới chuyện phong thưởng, không nói về việc kết hôn, Quế Hoa Sinh tất nhiên hiểu được ý tứ trong đó, thầm nghĩ, "Chỉ cần công chúa thật tâm yêu ta, ta sẽ tham gia khảo thí cầu hôn. Cần gì phải nhắc đến công lao lần này, không cần cầu quốc vương ban hôn."
Lập tức nói với quốc vương:
- Tôi đã nói từ đầu, không mong được đền đáp. Châu báu với tôi không có ý nghĩa gì cả, càng không mong quan tước.
Quốc vương nói tiếp:
- Vậy thì mời tiên sinh ở lại lâu một chút, cũng để cho quả nhân mở mang tầm mắt.
Quế Hoa Sinh đáp:
- Không dám làm phiền bệ hạ, tôi ở trong nhà Ba Lặc y sinh, nếu bệ hạ tuyên triệu, tôi sẽ tấn kiến lập tức.
Tuy quốc vương áy náy trong lòng, nhưng nghĩ tới nghĩ lui, thấy con gái mình có ý với Quế Hoa Sinh thì không nên để y ở lại trong cung. Quốc vương vẫn muốn gả công chúa cho Nhã Đức Tinh, trong mắt lão, võ công nhân phẩm của họ Quế không thua Nhã Đức Tinh, nhưng y lại không có thân phận vương tử như Nhã Đức Tinh.
Ngay sau đó quốc vương ban thưởng rất hậu cho Ba Lặc y sinh, đưa bọn họ xuất cung, Nhã Đức Tinh ở lại trong cung dưỡng bệnh.
Hai người ra khỏi cung, tưởng chừng như mọi chuyện vừa rồi chỉ là một giấc mơ. Ba Lặc cười nói:
- Ta đang muốn dịch Bản Thảo Cương Mục và Kỳ Kinh Bát Mạch khảo của Lý Thời Trân, văn tự Trung Quốc thâm sâu, xin người giúp sức. Sau này khi ngươi làm phò mã rồi còn phải nhờ ngươi giúp in những sách thuốc đó ra thành nhiều bản.
Quế Hoa Sinh đáp:
- Tôi làm sao có phúc phận đó.
Ba Lặc bật cười:
- Ở đây chúng ta có câu ngạn ngữ, chỉ cần cô nương có tình ý với ngươi thì ong mật sẽ đến tìm hoa, có cản cũng vô ích.
Vừa đi vừa nói một lúc, hai người đã về đến nhà. Ba Lặc mở cửa lớn, một mùi thơm bảng lảng lan ra, trên khay trà trong phòng có một tập giấy, một tờ hoa tiên nằm trên tập thư tịch. Ba Lặc cười nói:
- Ngươi xem, có người vừa đến đây, hương hoa trong phòng là của người ấy lưu lại.
Quế Hoa Sinh cầm tờ giấy lên xem, trên giấy có một bài từ theo điệu Điểm Giáng Thần:
Bình thủy tương phùng, tiện dĩ thị cầm tâm tiên hứa.
Nhất gia hoàn vũ, hải nội tồn tri kỷ.
Túng hữu châu phong, nan cách thiên thai lộ.
Thư thử ý, ý bằng phong nhứ, xuy hướng lang biên khứ.
(Dịch nghĩa:
Bèo nước gặp nhau, cùng ước hẹn,
Dưới bầu trời, chung một nhà, trên đất liền có người tri kỷ.
Dù có gió bão cũng không xa cách,
Nhờ gió gởi nỗi lòng đến cho chàng.)
Thư không đề tên, nhưng Quế Hoa Sinh biết đó là do công chúa viết, tâm ý "hợp một nhà" tràn ngập trong bài từ, dù có núi cao ngăn cách, quốc gia cản trở cũng không chia rẽ được tình ý này. Quế Hoa Sinh đọc đến say mê, ngơ ngẩn cả người.
Lại xem đến tập thư tịch, đó là đều là sách vở văn học Nepal. Cả đêm đó Quế Hoa Sinh đọc sách, thấy những chuyện kia đều có liên quan một chút đến văn học Trung Quốc. Ví dụ như chuyện Tuệ Siêu thiền sư (Vãng ngũ Thiên Trúc truyện), Tuệ Siêu là cao tăng Đường triều, kế tục Huyền Trang thiền sư đến Ấn Độ, viết lại cuốn Già Duy La Vệ ký, thuật lại hành trình ở Nepal. Sách này sau đó dược dịch sang tiếng Nepal. Ngoài ra còn có cao tăng nước Nepal viết kinh "Biến Văn", một thể loại văn học Phật giáo. Nepal là vương quốc Phật giáo, cho nên văn học điển tích ít nhiều đều liên quan đến Phật giáo. Tuy Quế Hoa Sinh không phải Phật tử, nhưng vẫn đọc say mê kinh văn điển tích kia, diệu ngữ phóng khoáng, vả lại, y biết những thứ này là do công chúa muốn y xem. Quế Hoa Sinh ghi lại những chỗ không hiểu, ngày hôm sau đem đến hỏi Ba Lặc.
Sáng sớm ngày thứ hai, Quế Hoa Sinh vẫn còn chưa dậy thì Ba Lặc đến bên giường, nói:
- Hôm nay ngươi định vào cung cầu hôn phải không?
Quế Hoa Sinh hỏi:
- Có chuyện gì sao?
Ba Lặc nói:
- Ngươi không cần đi nữa.
Quế Hoa Sinh bất ngờ, gặng hỏi. Ba Lặc đáp:
- Quốc vương có lệnh, việc tuyển phò mã tạm thời ngưng lại, chờ qua trăm ngày nữa mới tiếp tục. Nghe nói là muốn tổ chức lễ Vô Già vào ngày Phật Đản năm sau, cao tăng dị sĩ từ các nơi sẽ đến đây, nên chuyện cầu hôn tạm hoãn lại, hơn nữa, quốc vương mới khỏi bệnh, muốn công chúa ở bên cạnh chăm sóc.
Kỳ thực còn có lý do thứ ba mà Ba Lặc không nói, đó là quốc vương muốn gả công chúa cho Nhã Đức Tinh. Nhã Đức Tinh hiện đang ở trong cung dưỡng bệnh, quốc vương hi vọng trong vòng trăm ngày, hai người họ hồi tâm chuyển ý.
Quế Hoa Sinh cười hỏi:
- Vậy thì đâu có gì quan trọng, tôi chờ trăm ngày cũng được mà. Tôi cũng đang cần một chút thời gian để làm quen với phong tục tập quán quý quốc, đi quanh đây ngắm cảnh một chút.
Từ đó Quế Hoa Sinh ở lại trong nhà Ba Lặc, ban ngày đọc sách, ban đêm giúp lão dịch sách thuốc. Kiến thức Ba Lặc uyên bác, hai người cùng luận bàn, thu được lợi ích không ít. Hơn một tháng qua, chỉ có khi Mạch Sĩ Già Nam về nước, quốc vương mở tiệc tiễn chân mới mời Quế Hoa Sinh vào cung, cũng không thấy công chúa và Nhã Đức Tinh trong đêm tiệc. Nghe nói vương tử Nhã Đức Tinh bị thương quá nặng, tuy có tuyết liên giúp tan máu bầm nhưng vẫn chưa hồi phục.
Dần dần, Quế Hoa Sinh biết quốc vương có ý lạnh nhạt mình, nhưng y không quan tâm đến chuyện đó. Một ngày nọ, Quế Hoa Sinh đến núi Tụy Dương Bố vãn cảnh Liên Hoa bảo tháp, khi qua về thì thấy Ba Lặc sắc mặt rầu rĩ, đang thu thập hành trang. Quế Hoa Sinh hỏi, Ba Lặc đáp:
- Trụ trì chùa Mã Thanh Lặc thành Bột Đề Cương mời ta đến xem bệnh, ta không thể không đi, xem ra chúng ta phải chia tay một tháng.
Nepal dùng Phật giáo lập quốc, ngoài thần miếu thì chùa Mã Thanh Lặc là lớn nhất, địa vị trụ trì rất cao. Có một thần thoại liên quan đến chùa này. Tục truyền Ấn Độ cổ có một vị thánh nhân tên là Mã Thanh Lặc, học trò của người này là Ca Lạp Nã từng đến Nepal thăm viếng, lại không được người Nepal chào đón. Ca Lạp Nã nổi giận, nằm bất động dưới một ngọn núi, lập tức trời Nepal không mưa nữa. Quốc vương không còn cách nào khác, đành đến Ấn Độ xin Mã Thanh Lặc khuyên Ca Lạp Nã ngồi dậy. Ca Lạp Nã vừa đứng lên thì trời mưa như trút, Nepal thoát hạn hán. Quốc vương liền hạ lệnh cả nước hàng năm cử hành ngày lễ tạ ơn Mã Thanh Lặc, lễ này gọi là "Mã Thanh Lặc già lạp tiết". Hiện nay, lễ này là một trong hai đại lễ ở Nepal trong năm (lễ kia là "Nhiên Đăng tiết", giống như lễ Nguyên Tiêu ở Trung Quốc. Mỗi khi đến lễ, nhà nhà giăng đèn kết hoa, chuẩn bị đồ ăn khoản đãi thân hữu, chùa miếu có tiệc ca múa, thanh niên nam nữ thoả thích ca hát, rất náo nhiệt).
Ngoài việc định ra ngày lễ tạ ơn Mã Thanh Lặc, quốc vương còn cho xây chùa Mã Thanh Lặc to lớn trên ngọn núi Ca Lạp Nã đã nằm.
Quế Hoa Sinh cười hỏi:
- Lão trượng có chắc một tháng nữa sẽ quay lại đây không?
Ba Lặc đáp:
- Ta chẩn bệnh chỉ chừng mười ngày thôi, chưa bao giờ hết chừng ấy ngày mà chưa có kết quả. Thêm cả thời gian đi về thì một tháng là đủ.
Quế Hoa Sinh nhẩm tính, từ đây đến lúc chọn phò mã còn khoảng năm mươi ngày, liền nói:
- Tôi nghe nói phong cảnh vùng phụ cận Bột thành rất đẹp, tôi theo lão trượng một chuyến vậy!
Ba Lặc có y đồng hành, rất vui vẻ. Ngày thứ hai, hai người khởi hành đến thành Bột Đề Cương. Quế Hoa Sinh không ngờ rằng chuyến đi này của y gần như không thể trở về được.