Bốn con ngựa chạy rất nhanh, từ chân núi Thụy Dương Bố, không quá nửa canh giờ đã tiến vào hoàng thành. Quế Hoa Sinh suy nghĩ rất lung, sự nghi ngờ trong lòng càng lúc càng lớn. Ai đã ám trợ y? Y từng nghĩ đó là bạch y thiếu nữ, nhưng chẳng thấy tăm hơi nàng ta đâu, trừ phi nàng là tiên nữ thượng giới thoắt ẩn thoắt hiện. Còn Ba Lặc thì sao? Ba Lặc không biết võ công? Hay là hai cung nữ kia? Hai nàng ấy làm sao biết được bí mật trong băng quật? Hay là... hay là công chúa Nepal chính là bạch y thiếu nữ? Suy nghĩ này khiến Quế Hoa Sinh cảm thấy mọi chuyện quá sức ly kỳ.
Xe ngựa vào hoàng thành, hoàng cung đã ở trong tầm mắt. Sắc mặt Ba Lặc ưu tư, lặng lẽ nói với Quế Hoa Sinh:
- Lão đệ, ngươi có chắc không?
Quế Hoa Sinh cười nói:
- Lão trượng xin yên tâm.
Ba Lặc nói:
- Quốc vương trúng độc không phải nhẹ, nếu chữa trị không được thì... theo quy củ nước ta, đại phu có thể sẽ phải tuẫn táng theo quốc vương!
Quế Hoa Sinh nói:
- Nếu là bệnh lạ nào khác thì tôi không chắc, nhưng nếu là trúng độc, haha, vậy tôi có thể đảm bảo thuốc đến bệnh trừ. Lão trượng, người có từng nghe nói đến tuyết liên Thiên Sơn có công dụng giải độc kỳ diệu không?
Dứt lời liền lấy một đóa tuyết liên ra, thoáng chốc cả xe thơm lừng hương sen, tinh thần ai nấy đều phấn chấn hẳn lên. Ba Lặc từng đọc qua một quyển sách thuốc cổ đại, trong đó có nhắc đến tuyết liên Thiên Sơn, dù có trúng phải kịch độc như Khổng Tước Đảm hay Hạc Đỉnh Hồng, chỉ cần có tuyết liên Thiên Sơn vẫn giữ được mạng. Ba Lặc thấy thế, cảm thấy nhẹ nhõm hơn rất nhiều.
Xe dừng trước cửa cung, vương cung Nepal không hùng vĩ như hoàng cung Bắc Kinh, không lộng lẫy như cung Bố Đạt Lạp nhưng cũng có nét đặc biệt riêng. Mặt sau vương cung là tháp miếu, hai bên là lầu các, xà nhà rường cột đều chạm trổ chim muông, đỉnh nóc nhà bịt bằng đồng thau, phản chiếu ánh sáng chói mắt, dưới mái có treo phong linh, tiếng tinh tang dễ chịu. Ngoài vương cung có tượng phật Như Lai cao hơn ba trượng, có đầu rồng phun nước đúc bằng đồng. Kiến trúc dung hòa kết hợp cả đông lẫn tây, tuy có chịu ảnh hưởng từ phong cách kiến trúc dị quốc, nhưng vẫn thấy kiến trúc và văn hóa Trung Quốc nổi bật hơn cả. Mọi thứ mới lạ, Quế Hoa Sinh như lạc vào hang sâu, không kịp nhìn ngắm cho kỹ. Y kéo Tổng đốc Ngự lâm quân, bước theo sau cung nữ, đi hết một hành lang uốn khúc thẳng vào hậu cung, đến một cung diện xây bằng đá trắng, ra mắt quốc vương Nepal.
Cảnh tượng trong cung khiến Quế Hoa Sinh kinh ngạc, quốc vương Nepal ngồi sau màn gấm, sắc mặt hồng hào không giống người có bệnh. Một ông già đứng phía sau, Ba Lặc nhận ra đó là ngự y. Trước mặt quốc vương có một thiếu niên đang đứng. Quế Hoa Sinh vừa bước vào, trong cung tràn ngập một mùi hương lạ, là mùi thơm của tuyết liên Thiên Sơn. Thấy Quế Hoa Sinh bước vào, quốc vương chậm rãi đứng lên vén màn gấm, thiếu niên kia cũng quay lưng lại. Ánh mắt Quế Hoa Sinh và gã chạm nhau một lúc, cả hai cùng kinh ngạc, nhất là thiếu niên kia, gương mặt lộ vẻ sững sờ.
Người ấy là ai? Chính là thiếu niên Ấn Độ Quế Hoa Sinh đã gặp trên núi Hi Mã Lạp Nhã. Y gật đầu chào Nhã Đức Tinh, sau đó phủ phục dập đầu trước quốc vương. Quốc vương bái một bái dài:
- Cao hiền thượng quốc không cần đa lễ.
Nói xong liền ban tọa. Quế Hoa Sinh liền hỏi:
- Không biết quốc vương triệu kiến có việc gì?
Quốc vương Nepal cười ha hả:
- Vốn định nhờ tiên sinh chữa bệnh, hiện giờ thì không phiền nữa rồi.
Tay chỉ vào thiếu niên kia, nói tiếp:
- Đây là vương tử Nhã Đức Tinh của Ấn Độ Chiêm Bà quốc. Sau khi ta phái xe ngựa đi đón đại giá của tiên sinh thì người này đã đến đây, thật sự thuốc đến bệnh hết, ta đã hoàn toàn khỏe lại. Có điều tiên sinh từ xa đến đây, tuy không có việc gì cũng xin ở lại vương cung tệ quốc mấy ngày.
Quế Hoa Sinh lập tức hiểu ra, Nhã Đức Tinh là vương tử Ấn độ, gã mạo hiểm lên núi tuyết tìm tuyết liên để chữa bệnh cho quốc vương Nepal.
Quốc vương lúc này mới chú ý đến Tổng đốc Ngự lâm quân đang đứng phía sau Quế Hoa Sinh, thấy hắn thần sắc bất an, tinh thần uể oải thì kinh ngạc, liền hỏi:
- Ngươi đến đây cùng quý khách làm gì?
Ba Lặc liền tâu:
- Tống đốc đại nhân bắt tôi ký tên lên bệnh án, không được nói bệ hạ trúng độc mà chỉ ghi là chứng đau đầu bình thường.
Quốc vương cả giận:
- Thế nghĩa là sao?
Ba Lặc liền kể lại chi tiết chuyện vừa xảy ra trong phủ Tổng đốc. Khi lão đang nói thì có một người từ trong bước ra. Tổng đốc lóp ngóp bò tới lạy lục:
- Vương tử mau cứu ta!
Quế Hoa Sinh nhìn lại, đó chẳng phải là vương tử Nepal đã gặp trong thành ma quỷ sao?
Vương tử Nepal lạnh lùng bước đến trước mặt Tổng đốc, cao giọng mắng:
- Ngươi thân mang trọng trách, lại dám hạ độc quốc vương, quốc vương dù có tha cho ngươi thì ta cũng không tha!
Tổng đốc cả kinh, sững sỡ:
- Cái gì? Ngươi... ta...
Vương tử Nepal không để cho hắn nói hết câu, bạt đao chém hắn làm hai đoạn trong chớp mắt! Quế Hoa Sinh vốn có thể ngăn cản, nhưng y là khách từ xa đến, không thể mạo muội ra tay. Hơn nữa vương tử Nepal ra tay đột ngột, không chờ Ba Lặc nói hết đã giết người diệt khẩu, khiến y không ngờ được.
Vương tử Nepal lau máu trên đao, xoay người chắp tay nói với quốc vương:
- Thúc thúc, người ở chốn thâm cung, bị người khác hạ độc, không cần điều tra, nhất định là do Tổng đốc Ngự lâm quân này ra tay.
Quốc vương nghe Ba Lặc nói xong, tuy nghi ngờ kẻ chủ mưu là Tổng đốc, nhưng vì chất nhi quá nóng vội, chưa kịp tra hỏi đã xuống tay hạ sát, nên chỉ đành nói là chất nhi trung thành cẩn cẩn:
- Hắn là Tổng đốc Ngự lâm quân, phụ trách bảo vệ hoàng cung, dù không phải do hắn hạ độc thì tội chết cũng khó tha, giết hắn rồi thì coi như xong.
Nói xong liền gọi võ sĩ mang thi thể Tổng đốc đi, lau dọn máu vương trên đất, rồi bày tiệc đãi khách. Quốc vương bệnh đến hơn hai tháng, nằm li bì trên giường, nay bỗng nhiên hết bệnh, trong lòng vui mừng nên tổ chức dạ yến trong cung đền ơn vương tử Ấn Độ, còn để đón tiếp Quế Hoa Sinh. Chuyện về Tổng đốc ngự lâm quân không truy cứu nữa.
Ba Lặc nhìn Quế Hoa Sinh, cả hai đều biết độc quốc vương trúng phải là độc mãn tính, Tổng đốc không có khả năng ra tay. Hắn chỉ là đồng mưu. Tuy nhiên, nếu bọn họ nói rõ chân tướng, quốc vương nhất định sẽ truy đến cùng, trong cung tất hỗn loạn. Hiện giờ quốc vương mới hết bệnh, tiệc mừng vừa mở, bọn họ không tiện nói nhiều.
Quế Hoa Sinh lấy thư của Đạt Lai Hoạt Phật dâng lên quốc vương:
- Thần sớm nên vào cung bái kiến bệ hạ, xin thứ tội.
Quốc vương nhìn thư, càng vui vẻ hơn:
- Tệ quốc lấy Phật giáo trị quốc, đáng lẽ quả nhân phải đến diện kiến Lạt Ma mới phải.
Vương tử Nepal liền nói:
- Con đã dùng danh nghĩa của thúc thúc, phái sứ giả đến cung Bố Đạt Lạp hiến tháp vàng nhân ngày Phật đản năm nay, còn chưa kịp bẩm báo với người!
Quốc vương càng vui hơn, cười nói:
- Việc ngươi làm rất hợp ý ta, việc quốc gia đại sự đều một tay ngươi lo liệu.
Rồi như chợt nhớ ra việc gì đó,
- Hai ngày trước có một tăng nhân từ Trung Quốc đến, có thể là người quen của ngươi. Lúc đó ta đang dưỡng bệnh, không thể triệu kiến. Bây giờ gọi hắn đến chung vui đi.
Quế Hoa Sinh nghĩ thầm, "Tăng nhân này là ai mà có thể vượt Hi Mã Lạp Nhã đến đây?"
Y liếc mắt một vòng, thấy vương tử Nepal có vẻ kinh ngạc, xem ra hắn cũng không biết tăng nhân này.
Tiệc đã dọn xong, tăng nhân Trung Quốc kia chưa đến, quốc vương mời Nhã Đức Tinh, Quế Hoa Sinh, Ba Lặc vào bàn, sai tám cung nữ rót rượu. Hai cung nữ đi triệu Quế Hoa Sinh ban nãy cũng nằm trong số đó. Quốc vương cầm chén rượu lên nói:
- Đêm nay ta có ba chuyện vui...
Vương tử đón ý tiếp lời:
- Thúc thúc nói ra một chuyện vui, chúng ta sẽ uống liền ba chén.
Quốc vương Nepal cười lớn:
- Chuyện thứ nhất, ta bị gian nhân hạ độc suýt chết, may gặp vương tử Ấn Độ hiến linh dược tiên hoa, không những bệnh cũ tiêu trừ mà nay tinh thần phấn chấn gấp bội, không thể không chúc mừng!
Vương tử cúi đầu:
- Cát nhân thiên tướng, chúc thúc thúc trường thọ thiên thu!
Nói xong uống liền ba ly. Quốc vương nói tiếp:
- Chuyện thứ hai là nghênh tiếp khách quý, Quế tiên sinh và vương tử Ấn Độ đều vượt qua ngọn núi cao nhất thế giới đến đây, thâm tình hữu nghị đáng ghi vào sử sách.
Vương tử tiếp lời:
- Hai vị cao hiền thượng quốc quang lâm tệ quốc, quả thật là phúc lớn cho nước ta. Được, ta kính mỗi vị ba chén.
Hắn mời rượu Quế Hoa Sinh, trên môi điểm nụ cười gian xảo, vừa có ý nịnh nọt vừa có ý uy hiếp. Quế Hoa Sinh thầm nhủ, "Không biết quốc vương có biết việc hắn âm mưu thôn tính Tây Tạng hay không? Sau này nếu có cơ hội, ta phải vạch trần hắn!"
Quế Hoa Sinh giữ vẻ mặt bình thường, uống hết ba chén ngự tửu.
Quốc vương nâng chén mỉm cười nói:
- Ta dưới gối chỉ có một đứa con gái, quả nhân muốn chọn một phò mã tốt cho nó, nhưng ngại vì nó tâm tính kiêu ngạo nên chưa tìm được người hợp ý. Hôm nay vương tử Nhã Đức Tinh cứu mạng ta, nhân phẩm tướng mạo như rồng phụng trong loài người, vương tử không chê nước ta là tiểu quốc, vượt đường xa đến đây cầu hôn. Dù vương tử không có ơn cứu mạng thì ta cũng đồng ý mối hôn sự này. Bây giờ ta làm chủ, mấy ngày nữa sẽ tổ chức hôn lễ, tiệc tối nay là lễ đính hôn.
Mọi người hoan hô như sấm, lúc này Quế Hoa Sinh mới biết dụng ý thật sự của gã khi tìm kiếm tuyết liên Thiên Sơn, trong lòng cũng mừng vì đã giúp gã hoàn thành tâm nguyện, cũng nâng chén chúc mừng gã.
Vương tử Nhã Đức Tinh đỏ mặt, dường như không thoải mái lắm, ấp úng một lát mới ngập ngừng hỏi:
- Không biết ý công chúa thế nào?
Quốc vương cười lớn:
- Công chúa còn dám không chịu sao?
Lập tức truyền cung nữ đến gặp công chúa, bảo nàng giao ra một vật quý để trao đổi với Nhã Đức Tinh, làm vật đính ước. Mọi người ngồi vào chỗ của mình, lần lượt nâng chén lần nữa, Quế Hoa Sinh chợt cảm giác một cung nữ chạm nhẹ vào người, y hơi ngẩn ra, lấy tay áo che chén rượu, giả như đang uống rượu, nhận từ tay cung nữ kia một viên giấy. Y thừa dịp mọi người chúc rượu Nhã Đức Tinh ồn ào, nhanh tay mở giấy ra đọc. Trong giấy là mấy hàng chữ cực nhỏ, là chữ Hán, nét chữ xinh xắn, "Mau nói cho quốc vương biết tuyết liên vốn là của ngươi, cản chuyện đính hôn của vương tử Nhã Đức Tinh và công chúa."
Quế Hoa Sinh giật mình, thầm nhủ, "Đây là ý gì? Vì sao ta phải cản bọn họ đính hôn? Chẳng lẽ công chúa không muốn gả cho gã? Nhưng tại sao phải là ta ra mặt?"
Ngước mắt nhìn lên, chỉ thấy người cung nữ khẽ mỉm cười với y, nụ cười hết sức bí hiểm! Quế Hoa Sinh nhất thời tâm loạn như ma, không biết phải làm sao.
Chợt Ba Lặc lên tiếng:
- Lão hủ hổ thẹn mang tiếng là y sinh, xin vương tử chỉ giáo, ngài đã dùng linh dược gì chữa khỏi bệnh cho quốc vương?
Vương tử Nepal cười nói:
- Ba Lặc lão tiên sinh, ông là đệ nhất danh y trong nước mà vương tử dùng thuốc gì cũng không biết hay sao?
Ba Lặc đáp:
- Ta đoán đó là một loại kỳ hoa, nhưng hoa này rất hiếm thấy, ở Ấn Độ căn bản không có loại hoa này, cho nên chỉ sợ ta đã đoán sai, không dám nói ra. Có thể vương tử có linh dược khác, xin mời nói ra cho lão mở rộng tầm mắt.
Vương tử Nhã Đức Tinh đỏ mặt, trong lòng thấp thỏm, ngập ngừng nói:
- Đó là tuyết liên Thiên Sơn của Trung Quốc.
Ba Lặc giả như ngạc nhiên:
- Vương tử thật là giỏi, đã từng lên đỉnh Thiên Sơn ở tận Trung Quốc sao?
Nhã Đức Tinh nhìn lại, chỉ thấy Quế Hoa Sinh cười mà như không cười, gã còn cảm thấy tâm trạng hỗn loạn hơn cả Quế Hoa Sinh.
Gió đêm truyền đến tiếng chuông nhu hòa. Nepal là đất nước Phật giáo, chùa miếu trong cung làm pháp sự lần thứ nhất trong ngày là vào canh năm hừng đông, lần thứ hai là lúc nửa đêm canh ba. Lúc này đang là canh ba, tiếng chuông ban nãy do tăng nhân làm pháp sự đánh. Vương tử Nhã Đức Tinh nghe tiếng chuông, tinh thần yên tĩnh trở lại, thầm nghĩ, "Thuở nhỏ ta từng nghe Long Diệp sư phụ thuyết pháp, đến lúc lợi hại quan đầu này sao lại để tâm niệm tham sân si chi phối? Phật giáo cấm nói dối, thiếu niên Trung Quốc này ngày trước đã chân thành tặng tuyết liên cho ta, sao ta lại phải giấu giếm công lao của y?"
Nghĩ rồi liền chắp tay nói với quốc vương:
- Người bệ hạ nên cảm tạ chính là vị Quế tiên sinh này, nếu không có y, chỉ sợ dù là y sư đệ nhất thiên hạ cũng không thể giải kỳ độc cho bệ hạ được.
Quốc vương lấy làm lạ:
- Nghĩa là sao? Cáo ngươi đã biết nhau từ trước à? Y chỉ cho ngươi cách chữa bệnh cho trẫm à?
Nhã Đức Tinh nói:
- Đóa tuyết liên Thiên Sơn của hạ thần là do vị Quế tiên sinh này tặng.
Rồi lập tức kể lại tao ngộ khi gã đến dãy Hi Mã Lạp Nhã tìm hoa, gặp Quế Hoa Sinh. Quế Hoa Sinh rất khâm phục gã, cũng chắp tay nói:
- Vương tử Nhã Đức Tinh không quản nguy hiểm tìm kiếm tuyết liên là vì bệ hạ. Gã có lòng chữa bệnh cho bệ hạ, thần vô tình có được vật ấy nên tặng cho gã thôi. Phật pháp chú trọng nhân quả, vương tử có thiện niệm nên có thiện báo, tôi không thể tranh công với gã.
Trong lòng nghĩ thầm, "Tâm địa Nhã Đức Tinh thật tốt, dù công chúa có lòng với ta, ta cũng nên hoàn thành chuyện tốt cho gã, huống hồ trong lòng ta sớm đã có người khác."
Trong một sát na, hình bóng thiếu nữ áo trắng hiện lên trong đầu, Quế Hoa Sinh thầm cần xin Phật tổ, hy vọng nàng không phải là công chúa.
Quốc vương Nepal cảm động:
- Hai vị đều là cao hiền thượng quốc, khiến người người kính nể. Nếu Quế tiên sinh định lưu lại đây, xin nhận chức Tổng đốc Ngự lâm quân.
Quế Hoa Sinh đáp:
- Tôi đã quen cuộc sống nhàn vân dã hạc, hơn nữa lại vô đức vô năng, lại vừa mới tới quý quốc, không thông hiểu phong tục lề thói, không có khả năng chận chức vụ ấy.
Quốc vương biết y không thích, ngừng lại một chút lại nói:
- Nếu là Quế tiên sinh không chịu lưu lại trẫm cũng không miễn cưỡng. Nhưng phải chờ uống rượu mừng của tiểu nữ xong, để trẫm tận tâm ý đưa tiễn tiên sinh.
Nhã Đức Tinh đang lo lắng bất an, sợ rằng nói ra chuyện tuyết liên xong thì hôn sự không thành, vừa nghe quốc vương nói xong thì như cất được tảng đá lớn trong lòng. Tuy Nhã Đức Tinh tính tình khoáng đạt, nhưng chuyện kỳ hoa là do Ba Lặc ép gã không thể không nói. Gã đã nghe tiếng công chúa Nepal quốc sắc thiên hương từ lâu, không ngại mưa gió gian khổ đến đây cầu hôn. Mắt thấy mỹ nhân sắp vào tay thì làm sao chịu mất?
Vương tử Nhã Đức Tinh đang hân hoan trong lòng thì cung nữ phái đi lúc nãy quay lại. Quốc vương hỏi:
- Lễ vật của công chúa đâu?
Cung nữ đáp:
- Công chúa nói nàng không chấp nhận phá lệ, xin mời vương tử y theo cách của nàng tuyển phu.
Sắc mặc quốc vương trầm xuống:
- Thật là hài tử không hiểu chuyện, ngươi có nói rõ vương tử là ân nhân cứu mạng của ta không?
Cung nữ đáp:
- Đã nói rồi!
Gương mặt Nhã Đức Tinh thoắt trắng thoắt đỏ, lúng túng vô cùng. Quốc vương bực mình:
- Ngươi đi nói với nó, nếu nó còn không nghe thì gọi nói ra đây nhìn tận mắt phong thái của vương tử, thử xem nó có phục hay không.
Quốc vương nói như vậy để đỡ cho Nhã Đức Tinh. Gã vui mừng trong lòng, nhìn không chớp mắt vào bức bình phong che cửa hậu cung.
Một lát sao, tiếng vòng ngọc đinh đang vang lên, Quế Hoa Sinh còn hồi hộp hơn cả Nhã Đức Tinh, nhỉ thầm, "Nếu vị công chúa này chính là muội muội Hoa Ngọc thì phải làm sao bây giờ?"
Cô gái kia chậm rãi bước ra từ sau bình phong, Quế Hoa Sinh thầm thở nhẹ một hơi, tuy thiếu nữ này xinh đẹp phi phàm nhưng không phải bóng áo trắng trong tâm tưởng của y. Chợt quốc vương lên tiếng, giọng hơi giận:
- Uyển Lan Tinh, tại sao công chúa không đến? Có phải nó đã đồng ý, để ngươi mang lễ vật đến không?
Hóa ra đây là thị nữ thân cận của công chúa. Nỗi băn khoăn trong lòng Quế Hoa Sinh vẫn chưa giải quyết được. Nhã Đức Tinh thất vọng ra mặt.
Cung nữ Uyển Lan Tinh nói:
- Công chúa nói, nếu vương tử đã chữa khỏi bệnh cho quốc vương thì cuộc thi có thể miễn đi một nửa.
Quốc vương hỏi:
- Miễn đi một nửa nghĩa là sao?
Cung nữ đáp:
- Không cần thi văn, chỉ thi võ, cũng không cần qua mấy cửa, chỉ cần thắng được thị nữ thì có thể so kiếm với công chúa, nếu đánh ngang tay coi như là được.
Lời nói vẫn là ép người vô cùng. Nhã Đức Tinh biết công chúa võ công lợi hại, cao thủ các nước còn không qua được cung nữ của nàng, làm sao có thể tỷ thí với chính công chúa. Vì vậy nên gã mới hao tâm tổn trí đi tìm tuyết liên chữa bệnh cho quốc vương, hi vọng tránh phải luận võ cùng công chúa. Vậy mà vất vả đến thế, cửa ải này cũng thoát được. Nhã Đức Tinh là đệ tử của cao tăng Long Diệp ở Ấn Độ, bình sinh khá tự phụ, nghe xong mấy lời cung nữ truyền đạt lại, lòng kiêu ngạo trỗi dậy, thầm nghĩ, "Nếu không tỉ thí, chẳng phải sẽ bị nàng ấy xem nhẹ hay sao?"
Nghĩ rồi liền nói:
- Công chúa là nữ trung hào kiệt, cân quắc tu mi, nếu chịu chỉ giáo cho kẻ này thì đúng là cầu cũng không được. Chỉ sợ động đến kiếm đao sẽ ngộ thương.
Ý của gã là muốn đổi thi võ sang thi văn, thứ nhất là tránh bị thương, thứ hai, dù có thua cũng dễ hạ đài. Lời còn chưa dứt, quốc vương vội nói:
- Đúng rồi, vương tử từ xa đến đây, chữa khỏi bệnh cho ta, nếu động đến đao kiếm thì sao gọi là tròn đạo đãi khách? Uyển Lan Tinh, ngươi quay lại nói với công chúa ý của ta, một nửa này cũng miễn luôn đi.
Cung nữ này đi vào một lúc, lát sau quay ra:
- Công chúa nói, muốn miễn thi đấu cũng được, nhưng có một vật làm sính lễ không thể thiếu được.
Vương tử Nhã Đức Tinh hỏi:
- Không biết công chúa muốn vật gì làm sính lễ?
Lòng nghĩ thầm, quốc gia của mình giàu có, tài bảo chồng chất như núi, trên thế giới có vật gì không thể kiếm được.
Cung nữ kia đáp:
- Công chúa nghe nói vương tử dùng tuyết liên chữa bệnh cho quốc vương, công chúa cũng muốn có một đóa làm sính lễ.
Nhã Đức Tinh nhất thời ngây người, gã biết Quế Hoa Sinh còn hai đóa tuyết liên, nhưng làm sao có thể mặt dày xin y một cái nữa làm sính lễ cưới vợ? Gã chợt hăng lên, nghĩ thầm, "Để ta tự đến Thiên Sơn hái tuyết liên, xem nàng còn nói gì được!"
Nhưng nghĩ đi nghĩ lại, từ đây đến Thiên Sơn đường xá xa xôi, làm sao biết chắc có thể tìm được hoa quý, tìm được cũng chưa biết là năm nào tháng nào mới quay lại được. Nghĩ đến đây, không khỏi đưa mắt nhìn Quế Hoa Sinh, vẻ cầu khẩn, hy vọng Quế Hoa Sinh sẽ lặng lẽ đưa cho gã một đóa.
Quế Hoa Sinh trong lòng hơi động, đang do dự thì cung nữ kia nói tiếp:
- Nếu không có Thiên Sơn tuyết liên thì đành dự tuyển. Công chúa nói, đây là đãi ngộ đặc biệt với vương tử, nếu là người khác, dù có Thiên Sơn tuyết liên thì cũng phải dự tuyển.
Nói rồi liếc Quế Hoa Sinh một chút, mỉm cười nói tiếp:
- Có điều, nếu như có người thật sự có tuyết liên Thiên Sơn, đưa cho công chúa, công chúa cũng sẽ không để người ấy thiệt thòi. Công chúa đồng ý lấy kỳ trân độc nhất vô nhị thiên hạ để trao đổi.
Quế Hoa Sinh hỏi lại, giọng lạc đi:
- Kỳ trân gì vậy?
Uyển Lan Tinh đáp:
- Tôi cũng không biết là cái gì, chỉ nghe công chúa nói, ai có được vật báu ấy sẽ vô địch thiên hạ! Tiên sinh, ngài có tuyết liên bên người phải không? Đừng bỏ qua cơ hội này nhé! Dù ngài không dám tỉ thí với công chúa, dù ngài không muốn cưới công chúa thì lấy được kỳ trân độc nhất này cũng đủ xưng hùng thiên hạ rồi!
Tim Quế Hoa Sinh cơ hồ bật ra khỏi lồng ngực, thầm nhủ, "Vật công chúa nói đến chẳng lẽ là Băng Phách Hàn Quang kiếm? Lẽ nào... vị công chúa này chính là muội muội Hoa Ngọc? Không, không thể được, chuyện này rất khó tin!"
Quốc vương nghe mà không hiểu, chỉ nghi hoặc, "Trong cung của ta có vật báu như thế thật ư?"
Nhưng nhìn vẻ mặt cung nữ thân cận của con gái, quốc vương chợt nhớ đến một chuyện, buổi chiều hôm qua, công chúa tấu rằng đã tìm được một thiếu niên bản lĩnh cao cường đến từ Trung Quốc, trên người có thuốc quý, nàng xin cha cho người nghênh tiếp. Quốc vương xưa nay luôn tin tưởng công chúa, khi đó trong người còn bệnh, mệt mỏi vô lực, không kịp hỏi vì sao nàng biết chuyện đó, nay nhìn chuyện trước mắt thì bừng tỉnh, nhủ thầm, "Chẳng trách con gái ta muốn phái người nghênh tiếp thiếu niên Trung Quốc này, thì ra nó đã mong chờ y từ lâu."
Quốc vương lúc này mới nhìn kỹ Quế Hoa Sinh một chút, thấy y khí vũ hiên ngang, anh tuấn tiêu sái, so với vương tử Ấn Độ chỉ có hơn chứ không kém, nhưng nghĩ đi nghĩ lại thì rốt cuộc Nhã Đức Tinh vẫn là vương tử, thân phận Quế Hoa Sinh không bằng.
Quế Hoa Sinh nghe xong, vừa mừng vừa lo, Nhã Đức Tinh ngơ ngác thẫn thờ, quốc vương bắt đầu do dự, ai nấy đều có tâm sự riêng, thoáng chốc tất cả đều im lặng. Chợt võ sĩ dẫn một lạt ma áo trắng bước vào, quốc vương liền nói:
- Cao tăng Trung Quốc đã đến.
Rồi quay lại nói với Uyển Lan Tinh:
- Ngươi quay về đi, khuyên công chúa suy nghĩ lại, đừng càn rỡ!
Bạch y lạt ma bước đến thềm đá, Quế Hoa Sinh bất ngờ, vẻ mặt mừng rỡ. Hóa ra đó là Mạch Sĩ Già Nam. Mạch Sĩ Già Nam gặp lại Quế Hoa Sinh, lại không bất ngờ chút nào. Hóa ra gã đã đến cung Bố Đạt Lạp, gặp Đạt Lai Lạt Ma, biết Đạt Lai Lạt Ma có viết thư cho Quế Hoa Sinh trình lên quốc vương. Bằng hữu tương phùng, trong lòng gã cũng rất vui. Chỉ có vương tử Nepal thầm lo lắng, sợ Mạch Sĩ Già Nam kể lại chuyện trong thành ma quỷ cho mọi người biết.
Mạch Sĩ Già Nam bước đến trước quốc vương, dâng thư của Pháp vương Bạch giáo lên trước. Quốc vương vui vẻ nhận thư, xem xong thì cả kinh, vội hỏi:
- Làm sao pháp trượng của quý Pháp vương lại bị cất giấu trong tệ quốc được?
Hóa ra Pháp vương viết thư đòi lại Cửu Hoàn pháp trượng đang ở chỗ Quốc vương Nepal. Mạch Sĩ Già Nam chắp tay đáp:
- Khi tiểu tăng ở Tây Tạng đã bị quốc sư quý quốc đoạt mất.
Nói rồi liếc mắt nhìn vương tử Nepal. Ngày đó, vương tử cũng có ra tay đoạt tích trượng.
Vương tử Nepal vội vàng ngắt lời Mạch Sĩ Già Nam, chắp tay nói với quốc vương:
- Khoảng tháng hai, tháng ba năm nay, con và quốc sư từng đến tham bái cung Bố Đạt Lạp, khi quay lại đây, nhân vì thúc thúc có bệnh trong người nên chưa kịp nói lại.
Những lời hắn nói có một nửa là thật, chỉ có hồng y phiên tăng từng đến cung Bố Đạt Lạp, còn hắn ở lại thành ma quỷ, mưu tính kế hoạch thôn tính Tây Tạng. Quốc vương hỏi:
- Ngươi có biết chuyện này không?
Vương tử đáp:
- Bẩm thúc thúc, pháp trượng của Bạch giáo Pháp vương do Ma Lan pháp sư đoạt mất.
Ma Lan là tên của phiên tăng kia. Quốc vương tin lời vương tử nói, kinh ngạc thốt lên:
- Ma Lan pháp sư sao có thể làm ra chuyện như vậy?
Vương tử nói tiếp:
- Thúc thúc không hỏi, con cũng không dám nói, Ma Lan pháp sư dã tâm bừng bừng, hắn muốn phỏng theo cách Đạt Lai Lạt Ma Ban Thiện Tây Tạng đã làm, sau này sẽ lên làm lạt ma của bổn quốc, lấy giáo quyền áp đảo vương quyền. Chính hắn đã cướp pháp trượng. Pháp trượng tượng trưng cho quyền uy Phật giáo, có vật đó trong tay, sau này hắn dễ dàng tự phong mình là Thượng Tôn.
Quốc vương sững sờ không nói nên lời, vương tử tiếp tục nói:
- Ban nãy Ba Lặc đã kể, họ đã từng vào trong dinh phủ của Tổng đốc Ngự lâm quân, Ma Lan pháp sư không phải cũng ở đó hay sao?
Ba Lặc đáp:
- Không sai, quốc sư từng khuyên thần vâng lời Tổng đốc.
Quốc vương tức giận vô cùng, miệng quát:
- Phản, phản rồi!
Vương tử Nepal nói tiếp:
- Con xem, chuyện hạ độc chắc chắn là chủ ý của pháp sư, do Tổng đốc hành sự.
Quốc vương đồng ý:
- Nhất định là như vậy!
Vương tử chắp tay nói:
- Vậy xin thúc thúc ra lệnh bắt pháp sư lại.
Vương tử Nepal vừa nói xong, Quế Hoa Sinh lẫn Mạch Sĩ Già Nam kinh ngạc. Hai người biết lời vương tử nói thật giả lẫn lộn, nhưng trong thời gian ngắn trước mắt không tiện vạch trần hắn.
Mục đích của Mạch Sĩ Già Nam là lấy pháp trượng mang về, không muốn có thêm rắc rối, gã biết vương tử là cháu ruột của quốc vương, trong tay nắm binh quyền. Nếu hắn chịu ra mặt bắt Ma Lan pháp sư, trả lại pháp trượng là tốt nhất, xem như vẹn toàn đôi bên, không cần nói ra những chuyện bên trong.
Quốc vương trầm ngâm một lát, từ tốn nói:
- Võ công pháp sư cao cường, vây cánh cũng nhiều, xem ra chỉ có cách để cho ngươi đi bắt hắn thì ta mới yên tâm.
Vương tử đáp:
- Chất nhi xin tự thân xuất mã cho chuyện lớn này. Có điều con có một ý khác, xin thúc thúc xem xét.
Quốc vương nói:
- Ngươi mau nói đi.
Vương tử bẩm:
- Võ công pháp sư vô địch bổn quốc. Dù có bắt được hắn cũng tử thương không ít võ sĩ. Quế tiên sinh và Nhã Đức Tinh vương tử đều là cao hiền thượng quốc, bản lĩnh siêu phàm; Mạch Sĩ Già Nam là sứ giả Pháp vương, đã từ Thanh Hải Trung Quốc vượt đường xa đến đây, võ công chắc chắn cao minh. Chất nhi muốn mượn sức ba vị để bắt quốc sư. Nếu Nhã Đức Tinh vương tử bắt được hắn, xem như lập đại công. Theo luật nước ta, lập công lớn tất có tưởng thưởng xứng đáng. Lúc đó xin thúc thúc làm chủ, gả muội muội cho gã, cả nước sẽ vui mừng khôn xiết, muội muội cũng không thể từ chối. Còn nếu là Quế tiên sinh bắt được thì sao? Chuyện thưởng công xin thúc thúc tác thành tâm nguyện cho y.
Ý nói rằng Quế Hoa Sinh cũng muốn cưới công chúa.
Quế Hoa Sinh hồ nghi trong lòng. Trong thành ma quỷ, y đã tận mắt chứng kiến vương tử cấu kết với pháp sư mưu đồ chuyện xấu, nhưng vì sao đêm nay vương tử trở mặt với pháp sư, có phải muốn đưa đồng bọn vào chỗ chết?
Quế Hoa Sinh không biết rằng kẻ âm thầm hạ độc quốc vương chính là chất nhi của lão, vương tử Nepal. Đất nước Nepal đồng thời chịu ảnh hưởng văn hóa hai phía đông tây. Theo quy củ của các nước Tây Âu, Trung Á, Ả Rập, Ấn Độ, công chúa có thể kế thừa vương vị, không giống như tập quán Trung Quốc, chỉ có con trai mới được truyền ngôi. Quốc vương Nepal chỉ có một công chúa, tôn thất thân cận nhất chính là vương tử này, nếu vương vị không phải do công chúa kế thừa tất sẽ thuộc về vương tử. Đại thần trong nước cũng chia làm hai phái, một bên ủng lập công chúa, một bên theo phe vương tử.
Công chúa không quan tâm đến vương vị, vương tử thì trăm phương ngàn kế muốn ngồi lên bảo tọa. Mưu đồ thôn tính Tây Tạng có liên quan đến việc tranh cướp vương vị. Nếu hắn lập đại công nơi dị vực, chẳng những được người trong nước sùng bái, hơn nữa có thể nắm trọn quân quyền, khống chế cả nước, không ngờ bị Quế Hoa Sinh vô tình phá hoại, cho nên sau khi về nước, vương tử liền hợp mưu với Ma Lan pháp sư và Tổng đốc Ngự lâm quân, ám hại quốc vương. Bọn chúng cố kỵ công chúa, không dám dùng độc dược bình thường có sẵn, phải dùng đến dược vật chỉ có ở núi Hi Mã Lạp Nhã, hoa A Tu La, phối hợp với độc dược mãn tính khác thành một loại độc không màu không mùi. Chỉ cần hạ độc trong vòng một tháng có thể khiến quốc vương băng hà mà không ai có thể truy ra nguồn cơn, rồi lại bị Quế Hoa Sinh phá hỏng kế hoạch, dùng tuyết liên Thiên Sơn cứu quốc vương.
Vương tử lo lắng âm mưu bị tiết lộ, nên giết chết Tổng đốc Ngự lâm quân để diệt khẩu, sau đó một mặt ngầm bảo Ma Lan pháp sư đào tẩu trong đêm, một mặt xin quốc vương hạ chỉ bắt giữ pháp sư. Kế hoạch mượn sức Quế Hoa Sinh và Nhã Đức Tinh bắt người thật là nhất tiễn hạ song điêu. Đề Ma Đạt Đa cũng do hắn mời đến. Vương tử hứa giúp lão chinh phục đỉnh Châu Mục Lãng Mã. Nhưng Đề Ma Đạt Đa không biết nội tình mưu hại quốc vương, lão chỉ bảo hộ Ma Lan pháp sư theo lời vương tử.
Hắn biết Quế Hoa Sinh và Nhã Đức Tinh đều là người bất phàm, bất luận là ai làm phò mã cũng sẽ cản trở đại kế đoạt ngôi của hắn. Bên ngoài là mượn sức hai người bắt phạm nhân, bên trong muốn mượn tay Đề Ma Đạt Đa trừ khử cả hai! Dụng tâm của hắn độc ác không sao kể nổi! Tuy Quế Hoa Sinh và vương tử Ấn Độ thông minh hiếm có, nhưng làm sao có thể đoán ra được thâm kế này?