Sắc trời mờ tỏ, ban mai trong núi còn thấm đẫm sương đêm, giăng khắp nơi như lưới, lúc sà xuống lúc bay lên, bên một ao nước trong thung lũng vang rộn tiếng người huyên náo khác thường.

Nước ao không sâu, bên trong xiêu vẹo một chiếc xe van màu trắng chổng ngược, không ít người đứng trên bờ nước, người kéo thừng, người đẩy xà beng xuống nước, còn có người bơi từ dưới thân xe ra, loạt xoạt đưa tay lau nước trên mặt.

Mạnh Kình Tùng ngồi xổm trên vách đá trên cao, đưa tay lần sờ vết bánh xe trên mặt đất, mép vách ẩm bùn, vết bánh xe vô cùng rõ ràng: xe hẳn là đã mất khống chế từ nơi này, lao xuống ao nước cách vài mét bên dưới, sau đó giữ tư thế lật ngược như thế chờ họ chạy tới.

Rơi từ độ cao này xuống thì có bị lật xe cũng không gặp thương tổn gì lớn, huống hồ đã xác nhận được rằng trong xe không có ai.

Người đi đâu hết rồi, là Bạch Thủy Tiêu như ý hay là Thiên Tư đắc thủ? Nhưng nếu là Thiên Tư chiếm thế thượng phong thì tại sao lại không tìm cách liên lạc với họ?

Mạnh Kình Tùng cau mày, trước đó hắn chỉ hơi không yên lòng: Ánh mắt Mạnh Thiên Tư nhìn y khi ấy khiến nhìn ra vụ bắt cóc đó cũng không quá nguy hiểm, giống như cô đang tương kế tựu kế hơn, bởi vậy nên y không gấp gáp cứu người mà cố gắng phối hợp, yên lặng theo dõi diễn biến.

Mãi đến khi Liễu Quan Quốc báo điểm đỏ trên màn hình theo dõi đã bất động hồi lâu, hơn nữa xem vị trí hoàn toàn là ở trong núi, xung quanh không có bất kỳ thôn trại nào, y nghe mà bồn chồn, lúc này nỗi lo âu mới dần lên men.



Phía sau vang lên tiếng bước chân quen thuộc, Mạnh Kình Tùng chà chà ngón tay, thổi bụi trong lòng bàn tay, đứng lên: “Thế nào?”

Người tới là Liễu Quan Quốc, y bôn tẩu cả một đêm, mặt mày sưng phù, dưới mắt cũng thâm xanh: “Đã tìm kiếm xung quanh, phát hiện được vài vết chân trong bụi cỏ nhưng không có giá trị gì – căn bản là không nhìn ra đi về hướng nào.”

Mạnh Kình Tùng ừ một tiếng, ý bảo gã tiếp tục.

“Bạch Thủy Tiêu có hai nơi ở, một căn hộ ở huyện Long Sơn, nhà cũ thì ở trại Lạp Khoa, hai nơi đó chúng tôi đều đã tới, không người, cô ta hẳn còn có chốn dừng chân khác, hỏi hàng xóm đều nói là không gặp cô ta thường xuyên lắm, cũng chưa từng thấy cô ta có bạn bè qua lại nào.”

Điều này thực ra cũng nằm trong dự liệu, Bạch Thủy Tiêu là kẻ xảo quyệt đến vậy kia mà.

Mạnh Kình Tùng có phần bực dọc: “Không còn gì khác? Người được mời tới ăn bữa cơm chúng ta mời mà chỉ biết có chừng đó về cô ta thôi?”

Mặt Liễu Quan Quốc nóng ran, khó mà mở miệng được.

Lạc hoa động nữ kỳ thực hơi đặc biệt, không có thanh thế lớn như đi chân hay Thần tự đầu, về mặt bản chất thì chỉ là những cô gái bơ vơ si dại, được thần động phù hộ, có chút bản lĩnh vượt trội hơn người, không thích qua lại với người khác, gần gũi với núi rừng hơn – Lần này Mạnh Thiên Tư mời khách muốn chu toàn mọi mặt không để sót bên nào, chỉ cần lai lịch hơi kỳ dị một chút là đều nhận được thiếp mời, giống như lão Gàn vậy, chỉ là một thợ làm mặt nạ rước thần thôi nhưng cũng được một ghế.

Ai mà ngờ được sau lưng con ả này lại phức tạp như vậy.

Mạnh Kình Tùng dứt lời rồi cũng biết là nói thế không ổn, hơi mang ý giận chó đánh mèo, nhưng tự phụ với thân phận của mình nên cũng chẳng bỏ qua sĩ diện mà nói lời mềm mỏng với Liễu Quan Quốc được, bèn chuyển sang để tài khác – đúng lúc này trông thấy có một chiếc xe từ đằng xa đang phóng tới.

Y còn tưởng là xe cô đi ngang qua nán lại hóng hớt, mãi đến khi có hai người vội vàng xuống khỏi xe, Liễu Quan Quốc sốt sắng tiến lên đón, mới biết người tới cũng là quỷ non.

Lại nhìn thử mặt, trông có hơi quen quen, ngẫm nghĩ một lát thì nhớ ra: là Thẩm Vạn Cổ và Thẩm Bang, không phải họ đưa lão già dở hơi kia đi du sơn ngoạn thủy rồi à?

Nghĩ tới ai người đó hiện ra: Cửa hàng ghế sau xe bật mở, nhô ra nửa người hết nhìn đông lại nhìn tây, người đó chính là Thần Côn.

Mạnh Kình Tùng hơi phiền người này, cảm thấy người này như keo dính vậy, vung không rời còn vướng tay vướng chân, nhưng lại không thể không nể mặt cô bảy, vì vậy nên lúc ánh mắt hai bên chạm nhau, y khách khí cười cười với lão.

Không ngờ nụ cười ấy lại cổ vũ lão già này, lát sau, Thần Côn vui vẻ chạy tới: “Nghe nói cô Mạnh bị một lạc hoa động nữ bắt cóc đi mất rồi?”

Bắt cóc cái gì! Mấy tên thủ hạ này lúc nào cũng thích nói chuyện giật gân, tam sao thất bản, Mạnh Kình Tùng có phần không vui, lại không tiện thể hiện ra: “Là Thiên Tư chủ động đi cùng cô gái đó, cô ấy có quyết định của riêng mình.”

Vẻ mặt Thần Côn ân cần quan tâm: “Tôi nghe nói không tìm ra cái cô Bạch Thủy…gì gì đó?”

Hỏi lắm thế, có thấy mình hơi bị tọc mạch quá rồi không? Mạnh Kình Tùng sốt ruột: “Phải.”

“Cái cô Bạch Thủy gì đấy thực sự là lạc hoa động nữ à? Không phải giả đấy chứ?”

Cái này còn giả được nữa à? Mạnh Kình Tùng nhất thời không đáp được, cũng may đám Liễu Quan Quốc cũng đi tới, vừa vặn nghe thấy, trả lời giúp y: “Chắc không phải giả đâu, Bạch Thủy Tiêu lạc động đã nhiều năm rồi, người trại Lạp Khoa đều biết chuyện này cả.”

Thần Côn ừ một tiếng, ra chiều đăm chiêu: “Động mà cô ta lạc là cái nào?”

Lão Thần Côn này hình như hỏi rất có trật tự, Mạnh Kình Tùng giật mình: “Chuyện này quan trọng lắm à?”

Thần Côn nguýt y: “Nói nhảm, đương nhiên là quan trọng rồi, cậu có hiểu thế nào là lạc động không?”

Thẩm Vạn Cổ bên cạnh sợ hết hồn, vội túm góc áo lão: “Chú…chú Côn, chú nói chuyện với trợ lý Mạnh nên…lễ độ một chút.”

Trước mặt Mạnh Kình Tùng và Liễu Quan Quốc, gã không dám gọi lão là “nội Côn”, sợ bị mắng: Ai là ông nội anh? Làm quỷ non mà lại gọi người khác là nội à?

Nếu là thường ngày, bị người khác vô lễ mỉa mai như vậy, Mạnh Kình Tùng đã sớm trở mặt rồi, nhưng hơn thua với loại người bừa bãi như Thần Côn thật chẳng có nghĩa lý gì, y bèn dịu giọng lại: “Chú Thần…từng nghiên cứu về lạc động ạ?”

Thần Côn khoe khoang: “Tôi tới Tương Tây khá nhiều lần rồi, từng gặp lạc hoa động nữ, còn từng chứng kiến lão vu người Miêu đến chỗ thần động cướp hồn nữa cơ, cậu thấy bao giờ chưa?”

Câu cuối là nói với hai Thẩm, hai người ra sức lắc đầu.

Thần Côn càng nói càng hứng khởi: “Cướp hồn là phải dùng võ, tay cầm gậy, hết gõ lại đục xuống đất rồi thì đập mạnh lên vách động, còn phải niệm chú: Cổn ba bắt hồn, thân ở nơi giếng lớn giếng nhỏ, động to động bé, kênh rộng kênh hẹp… Phải thảo phạt mi, khiến mi không được sống yên ổn…”

Nói được nửa thì ngắc ngứ, thở dài một hơi: “Không xong rồi, trí nhớ không rõ ràng nữa rồi, thế mới nói trí nhớ tốt chẳng bằng ngòi bút tồi, may mà tôi có ghi lại trong sổ, đoạn đó dài lắm, đợi tôi về lật tìm xem.”

Mạnh Kình Tùng mở cờ trong bụng, kỳ thực quỷ non không hiểu biết nhiều lắm về lạc động, lật qua lật lại cũng chỉ có vài câu qua loa trong sách bách khoa, nhưng những lời Thần Côn nói quả thật nghe có vẻ khá chuyên nghiệp, y bắt đầu khách khí: “Tại sao chú lại cảm thấy cái động Bạch Thủy Tiêu lạc rất quan trọng?”

Thần Côn đáp: “Rõ ràng thế còn gì, nếu cô ta đúng là lạc hoa động nữ thì chuyện cô ta làm đều là nghe thần động sai bảo, lạc động tiếng Miêu gọi là gì, anh có biết không?”

Xem chừng mấy người này đều không hiểu, Thần Côn giơ tay biểu thị số “hai”: “Hai cách gọi, một là cổn ba, ý nghĩa rất rõ ràng, là hồn rơi mất trong động; còn một cách gọi khác là trảo đỉnh bạc lược, nghĩa của cách gọi này rất thâm sâu, biểu trưng cho trời long đất lở.”

Nói vậy, Mạnh Kình Tùng vẫn ổn nhưng đám Liễu Quan Quốc thì hoàn toàn ngơ ngác, Thần Côn thở dài, cảm thấy giao tiếp với người thiếu học thức thật sự quá mệt mỏi: “Trời long đất lở ở đây ý là người đi sang thế giới bên kia, cậu nghĩ mà xem, trời long rồi không còn là bầu trời trước đó nữa, đất lở rồi, cậu cũng ngã oạch xuống, thế giới của cậu có còn là thế giới ban đầu không?”

Thẩm Bang gãi đầu: “Theo nghĩa rộng thì thế giới vẫn là thế giới đó nhưng theo nghĩa hẹp, lấy con người làm trung tâm thì thế giới nhỏ quanh người quả thực là có thay đổi.”

Ai thèm quan tâm nghĩa rộng nghĩa hẹp gì chứ, Thần Côn tiếp tục đĩnh đạc nói: “Như cái lạc động không phải là cơ thể mà là hồn phách, là tâm linh, bởi vậy nên, trảo đỉnh bạc nhược ý là hồn rơi vào thế giới bên kia, cô gái đó rất khó giao tiếp với người thường, thứ giao tiếp với cô ta là một thế lực khác mà người thường không nhìn thấy, không sờ được, cũng không tiếp xúc được.”

Liễu Quan Quốc nghe mà giật mình: Trong truyền thuyết, hình như lạc hoa động nữ đúng là rất khó giao tiếp với người bình thường, hằng ngày độc thoại, lúc khóc lúc cười, nói chung là đắm chìm trong thế giới của mình không cách nào thoát ra – trong mắt người ngoài thì chính là thất hồn lạc phách, hoặc nói tợn hơn chút thì là bị điên, bị dại rồi.

Giao tiếp với thế lực siêu hình nào đó không nhìn thấy? Lông tóc Liễu Quan Quốc dựng đứng cả lên, nhìn quanh nhìn quất, cứ cảm thấy như có một luồng khí lạnh đang muốn bò lên người mình.

Mạnh Kình Tùng mặt không đổi sắc: “Ý chú là, Bạch Thủy Tiêu bị một thế lực…thần động kỳ quái nào đó bày mưu đặt kế?”

Thần Côn xòe hai tay ra: “Tôi đâu có nói vậy, chọn từ nói ra cẩn thận chút đi, tôi chỉ nói là, nếu Bạch Thủy Tiêu không phải giả mạo mà là một lạc hoa động nữ thật thì việc cô ta làm đều là vì thần động, không còn ai khác. Bởi vì trong mắt cô ta căn bản đều chẳng là cái thá gì, ông trời bảo cô ta làm việc cô ta cũng phớt lờ.”

Dừng một chút lại bổ sung: “Còn nữa, thần động chỉ là một cách gọi quen nếp mà thôi, người Miêu không giống người Hán, trong văn hóa của họ không phân biệt quỷ thần, thần ma tiên tổ, miễn là thế lực siêu phàm, bất kể nó có phải thần thánh hay không, họ đều gọi là thần hết. Bởi vậy nên thần động không phải kiểu thần tiên mà cậu nghĩ đâu, gọi là quỷ động cũng chẳng sao, dù sao…cũng chính là loại thế lực mà họ không lý giải được, cố gắng tôn kính, không động chạm gì đến.”

Phải nói thế nào nhỉ, bị dồn ép thì cũng dám đi thảo phạt, đi chiến đấu đấy, nhưng đấu không lại thì chỉ có thể cúi đầu cam chịu số phận mà thôi, không giống với người Hán: trong văn hóa người Hán, bái thổ địa kính thành hoàng, song xưa nay chưa từng thấy có ai lập đội cầm dao cầm gậy đi đánh đấm thần linh bao giờ.

Thần Côn hơi thất thần: Ừm, nhận thức về quỷ thần của người Miêu…thú vị đấy, rất thú vị.

***

Lúc gà cất tiếng gáy đầu tiên, Mạnh Thiên Tư đã tỉnh lại, có điều không mở mắt ra nổi, tay chân bị trói đến tê rần, tứ chi bủn rủn, đầu cũng nặng trịch.

Cô đoán là dược tính còn chưa hết, dứt khoát nhắm mắt điều tức, lắng nghe động tĩnh trong ngoài phòng: trực giác cảm thấy là một sơn trại hoang vắng, bởi nghe một hồi lâu mà không thấy có tiếng xe, tiếng điện thoại đổ chuông, hay thậm chí là tiếng ti vi – trái lại, tiếng gà gáy bò kêu, tiếng khua đục thì lại liên tiếp không dứt, thỉnh thoảng có người nói chuyện lớn tiếng, còn nói giọng địa phương, xì xà xì xồ toàn tiếng địa phương cả nên căn bản là nghe không hiểu.

Một lát sau, miễn cưỡng đã có thể mở mắt, nhìn thấy mình đang ở trong một phòng chứa đồ, chật chội cũ nát, nhưng theo ánh sáng có thể nhìn ra được quét dọn sạch sẽ lạ thường.

Trong phòng không có ai, điều này khiến cô tạm thời thở phào, chợt sững lại, cảm thấy nằm sấp thế này rất không có khí chất, không phù hợp với thân phận, theo lời dạy của các cô bác thì “chết cũng phải chết có phong phạm của bậc vương giả”, bèn vận hết sức lực lên, từng chút chút hoạt động cơ thể ngồi dậy.

Ngồi dậy được rồi, có phần thổn thức: Chuyện đặt mình vào nguy hiểm này biến số có hơi to, dù cô là phối hợp bị bắt cóc nhưng hiện giờ, quyền chủ đạo hiển nhiên đã hơi lệch rồi, cô có nên mạnh tay ra chiêu không?

Không, chưa thấy thỏ chưa thả chim ưng, kẻ chủ mưu đứng sau còn chưa lộ diện, cô khoe mẽ cho ai xem chứ?

Lại suy tính tình cảnh: cũng không đến nỗi sẽ bị giết chết, muốn giết thì đã giết từ đêm qua rồi, nhưng có phải ăn đau chịu khổ hay không thì khó mà nói được, có thể sẽ bị đánh…

Mạnh Thiên Tư nhíu chặt mày, trực giác cảm thấy chịu đau thể xác là không thể tránh khỏi, có thân phận hạn chế thể diện, lại không thể khép nép xin tha, chỉ có thể gắng gượng chịu đựng, thế nên mới nói ở trên cao khó chịu được gió lạnh – giống như mất nước thời cổ đại vậy, dân đen có thể chạy trốn có thể đầu hàng, song tầng lớp quý tộc thì về cơ bản cũng chỉ có thể lấy cái chết tuẫn quốc, có đầu hàng cũng sẽ bị vô số người chê trách sau lưng.



Đương lúc suy nghĩ lên xuống, chợt nghe có tiếng mở cửa, xem ra sắp tới đoạn giao chiến rồi: Mạnh Thiên Tư ngồi thẳng người, gắng sức khiến mình trông không có chật vật.

Khóa móc rơi xuống, cửa gỗ két một tiếng mở ra, ngoài cửa trắng lóa nắng ban mai trắng lóa, trong ngoài chênh lệch sáng tối, Mạnh Thiên Tư nhất thời không thích ứng được, chỉ thấy có hai hình bóng một cao một thấp.

Cao chắc là Bạch Thủy Tiêu, thấp thì…

Cô trực giác cho là kẻ chủ mưu, không rảnh để ý đến nắng sớm lóa mắt mà nhìn chòng chọc, rốt cuộc cũng thấy rõ là một mụ già hơn sáu mươi, hẳn là cuộc sống khốn khó, mặc áo quái tử vải xanh, đi đôi giày vải mũi vuông, quần áo và giày đều có dấu vết giặt nhiều đến bạc màu, khuôn mặt trông có vẻ cay nghiệt, ấn đường ngập tràn lệ khí, nhìn là biết là loại đàn bà nhà quê rất khó dây vào, hàng xóm cũng phải lánh xa vài phần.

Mụ già ôm một cái bình bịt miệng đen bóng, miệng nhỏ bụng lớn, người thường trông thấy có lẽ sẽ cho là bên trong đựng dưa muối, nhưng Mạnh Thiên Tư lại không đoán vậy, liên hệ trước sau, một ý nghĩ chớp lóe, cô bật thốt: “Bà là thảo quỷ bà?”

Thảo quỷ bà là cách gọi “cổ bà” của dân bản địa, nghe đồn nhà nuôi cổ đều vô cùng sạch sẽ bởi cổ trùng ghét bẩn tưởi, bởi vậy nên cách giải cổ cấp thấp nhất chính là đổ đồ cứt đái vào, bẩn thỉu như vậy sẽ khiến cổ trùng rời khỏi cơ thể.

Bữa mời khách hôm trước của Mạnh Thiên Tư, phàm liên quan đến cổ bà đều chỉ “nhận quà không dự tiệc”, bởi cổ bà rất sợ để lộ thân phận của mình – hàng xóm biết anh nuôi cổ, sẽ sống nơm nớp biết bao, lỡ ngày nào đó dính vào thì thật sống không bằng chết, so ra thì thà tiếp xúc với cản thi cũng không muốn có hàng xóm là thảo quỷ bà.

Mụ già kia cười cười, trong mắt ẩn chứa hàm ý “cô tự biết rồi đấy”, hiển nhiên là ngầm thừa nhận.

Mạnh Thiên Tư cũng mỉm cười, trong lòng thầm mắng: tặng quà thật đúng là để nuôi chó rồi.