*Chương này có nội dung ảnh, nếu bạn không thấy nội dung chương, vui lòng bật chế độ hiện hình ảnh của trình duyệt để đọc.

Sau khi Nguyên Hạo chết Hoắc Thời Anh đã tự tay kiểm tra lại danh sách thêm một lần nữa, cũng vẫn không tìm thấy cái tên Nguyên Hạo, nhưng lại nhìn thấy một người có tên là Du Nguyên Khuê, về sau nàng mới hiểu tại sao Phùng Tranh lại không tìm thấy hắn, Nguyên Hạo vì muốn đổi xuất thân cho em trai mình, nên đã thay em trai tòng quân, chẳng trách hắn lại muốn nàng giúp em trai hắn sửa lại lý lịch, thì ra hắn cũng biết rằng bản thân sẽ chết.

Hoắc Thời Anh đích thân đào một cái hố để chôn Nguyên Hạo, sau đó ngồi bên phần mộ của hắn suốt một đêm, ngày thứ hai trời vừa sáng, liền dẫn người ngựa rời khỏi nơi này, nàng không ghi nhớ địa danh cụ thể nơi mai táng Nguyên Hạo, cũng không bắt bản thân phải ghi nhớ, vì nàng biết những thứ mình có thể cho Nguyên Hạo chỉ có bấy nhiêu thôi, nếu nhiều thêm chút nữa thì người lỗ sẽ là chính bản thân nàng.

Giữa tháng Mười hai, Hoắc Thời Anh dẫn đội quân còn lại chưa đến một nghìn của mình quay lại một làng chài nhỏ để nhận thêm người, đoàn quân còn lại chưa đến một nghìn đó của nàng mới đi có chưa đầy nửa tháng mà đã hoàn toàn khác so với lúc ban đầu, những người sống sót đều là những người dũng mãnh nhất, tố chất cơ thể khỏe mạnh nhất, ánh mắt người nào người nấy đều âm hiểm như lang sói.

Khuya muộn, khi bầu trời đêm phủ lên mình tấm màn đen sâu thăm thẳm, Hoắc Thời Anh và Phùng Tranh đứng sát mép biển, để mặc cho những cơn gió điên cuồng gào thét thổi tới, nhìn ba con thuyền to khủng khiếp đang từ từ tiến lại gần.

Qua độ nửa tuần trà, lúc vẫn còn cách mép biển tầm hai ba mươi trượng, thì ba con thuyền cao ba tầng, với những cánh buồm cực đại liền dừng lại, rất nhanh chóng trên mặt biển truyền đến từng trận từng trận ngựa kêu người hét, nhìn từ đằng xa, bốn phía của cánh buồm cực đại trông y hệt một cái bánh sủi cảo, phía dưới là vô số người ngựa, con thuyền không thể lại gần bờ, nên bộ binh và chiến mã chỉ còn cách lội nước để đổ bộ.

Trên mặt biển đông nghìn nghịt toàn người và ngựa, cảnh tượng vô cùng hoành tráng, sau tầm nửa khắc, bắt đầu dần dần có người tiến gần vào bờ, mỗi khi có người lên được bờ đều là một người một ngựa, ai nấy quần áo rách tả tơi, sắc mặt trắng bệch, run lẩy bà lẩy bẩy trong những cơn gió biển thổi tới, nhưng tay người nào người nấy đều siết chặt dây cương con chiến mã của mình, sau khi lên được bờ lại tự tìm về đội ngũ, cứ lần lượt như vậy nên chưa đến nửa canh giờ, đã có mười đội hình tập kết trên bờ.

Hoắc Thời Anh liếc nhìn, mười đội hình này giống hệt với biên chế của nàng, sáu trăm người làm thành một đồn, tổng cộng có mười đồn sáu nghìn người, sáu nghìn người ngựa này xếp hàng ngay ngắn chỉnh tề, trước sau đều có một người hô hiệu lệnh, duy trì đội hình, giữ gìn trật tự.

Hoắc Thời Anh nhớ đến cảnh tượng hỗn loạn hồi đầu khi dẫn ba nghìn người đổ bộ, liền đưa mắt nhìn Phùng Tranh, trong đáy mắt cả hai đều chứa đầy vẻ kinh hãi.

Có một con chiến mã phi rất nhanh đến phía trước, một thanh niên nhảy từ trên lưng ngựa, quỳ một gối xuống trước ngựa của bọn họ nói: “Trần Lộ đã dẫn binh đến, xin tham kiến Hoắc tướng quân.”

Hoắc Thời Anh ngồi trên lưng ngựa, nhìn chàng thanh niên đang cúi đầu quỳ đầy kính cẩn phía dưới, qua một lúc lâu mới lạnh lùng hỏi: “Ngươi là ai?”.

“Tiểu nhân Trần Lộ, tạm thời giữ chức Quân hầu trong quân.”

Hoắc Thời Anh nghiêm giọng hỏi: “Sau khi ta đi, là ai đã huấn luyện đội quân này?”

“Bẩm tướng quân, là do Trần tướng quân Tổng đốc quân mã Ung Châu.”

Phùng Tranh kinh ngạc, quay đầu sang nhìn Hoắc Thời Anh, lông mày Hoắc Thời Anh cau chặt: “Ngươi là người của quân Ung Châu.”

Trần Lộ quỳ trên đất không dám ngước đầu lên, trả lời câu nào câu nấy đều rất rõ ràng, rành mạch từng chữ một: “Bẩm tướng quân, tiểu nhân không phải người của quân Ung Châu, trước khi nhập ngũ tiểu nhân là con cháu của tội thần bị đày đến Ung Châu,…… trước đây tiểu nhân là quân nô, là thợ mỏ.”

Hoắc Thời Anh trầm mặc, một lúc lâu sau mới hỏi tiếp: “Trần Lộ, ta hỏi ngươi, chức Quân hầu này của ngươi do Trần tướng quân bổ nhiệm hả? Có giấy tờ ủy nhiệm không? Đã làm báo cáo chưa?”.

Trần Lộ vẫn thủy chung cúi đầu thưa: “Đúng là do Trần tướng quân bổ nhiệm, tiểu nhân chưa từng nhìn thấy giấy ủy nhiệm, chắc là cũng chưa làm báo cáo, Trần tướng quân cũng nói tiểu nhân chỉ tạm thời giữ chức này thôi, giao hết sáu nghìn người ngựa này cho Hoắc tướng quân xong, những việc còn lại để Hoắc tướng quân cân nhắc sắp xếp. Trần tướng quân cũng dặn rồi, đội quân này chỉ có sau khi qua tay tướng quân, để cô xem xét cải tịch, thì giấy tờ thăng chức mới được tính.”

Hoắc Thời Anh gật đầu nói: “Vậy hiện giờ ta miễn chức Quân hầu của ngươi, ngươi có đồng ý không?”.

Nghe thấy câu ấy Trần Lộ đang quỳ dưới đất giống như bị đánh “ầm” một cái, nhưng hắn lập tức đáp: “Tiểu nhân đồng ý.”

Hoắc Thời Anh lại nói tiếp: “Vậy được, Trần Lộ nghe lệnh, giờ ta lệnh cho ngươi giữ chức Đồn trưởng đồn thân vệ, biên chế của đồn thân vệ là ba trăm người, sau này tất cả sẽ do ngươi chọn lựa. Ta hy vọng sau hai trận chiến nữa ngươi có thể chọn đủ người cho ta.”

“Vâng!” Trần Lộ cúi người nhận lệnh, nghiêm túc lui về phía sau lưng Hoắc Thời Anh.

Tiếp đó Hoắc Thời Anh quay sang nói với Phùng Tranh: “Ngài nhanh chóng bổ nhiệm thêm ba Quân hầu đi, một người quản lý ba đồn, bản thân ngài tạm thời dẫn dắt một đồn, một nghìn người còn lại của chúng ta phân tán ra, chia về các đồn khác, bổ sung đủ quân số cho đồn trinh sát và đồn hậu vệ, những Đồn trưởng lúc ban đầu không cần thay đổi, ba Quân hầu chọn luôn từ trong số một nghìn người kia, còn nữa, lập tức phân phát quần áo mùa đông cho người ở trên bờ, trước khi trời sáng nhất định phải xử lý xong xuôi.”

“Được!” Phùng Tranh đáp rồi thúc ngựa phi đi như bay.

Bên này Hoắc Thời Anh xử lý ổn thỏa mọi việc rồi, thì phía bờ biển bên kia cũng có một con thuyền nhỏ chuẩn bị cập bến, người tới khoác một chiếc áo choàng đen làm bằng da rái cá, khuôn mặt trắng trẻo nhẵn nhụi, mang theo hai gã tùy tùng, phía sau dắt thêm một con ngựa, nhảy từ trên thuyền lên bờ.

Hoắc Thời Anh nhìn thấy tư thế ấy, vội vàng đi tới nghênh đón, ngay từ đằng xa người vừa mới tới đã cung tay khách sáo lên tiếng chào hỏi nàng: “Hoắc tướng quân, tham kiến tướng quân.”

Hoắc Thời Anh vừa nghe thấy giọng ông ta liền biết ngay ông ta là một thái giám, nên cũng vội vàng cung tay chào: “Xin chào đại nhân.”

Ông ta luôn miệng đáp: “Không dám, không dám.”

Ông ta đi tới gần lại cung tay lần nữa nói: “Tiểu nhân Lưu Phúc Tài, là Quản sự của phủ Nội vụ, chịu sự ủy thác của người khác đến để đưa vài thứ cho tướng quân.”

Hoắc Thời Anh vội vàng chắp tay khách khí đáp: “Làm phiền ngài rồi.”

Ông ta mỉm cười thoạt nhìn có cảm giác hơi u ám, nhận lấy từ tay tùy tùng đứng đằng sau một thứ gì đó đưa đến trước mặt Hoắc Thời Anh: “Tướng quân, ngài nhận lấy đi.”

Hoắc Thời Anh liếc nhìn thử là một cái tráp rất tinh xảo khắc hình hoa hải đường, nàng đưa tay ra nhận, vừa mở ra xem, trong đầu liền vang lên một tiếng “uỳnh”, vô cùng choáng váng, bên trong cái tráp toàn là đậu tằm rang.

Đóng nắp tráp đánh “cạch” một tiếng, Hoắc Thời Anh cầm chiếc tráp trong tay mà cứ như thể cầm một cây gậy đang cháy, nóng đến bỏng người.

Giọng nói phía đối diện đặc biệt sắc nhọn, cảm giác vô cùng chói tai: “Người đưa cho tiểu nhân món đồ này còn muốn nói với tướng quân vài câu.”

Hoắc Thời Anh nghe vậy, vội vàng cung kính đứng nghiêm khom lưng, Lưu Phúc Tài thẳng lưng, nâng cằm bắt chước giọng điệu của ai đó: “Tặng cho nàng thanh đao, không phải để nàng thờ, mà là để giết địch, là tướng quân lớn lên trong quân doanh, không ngờ lại câu nệ cổ hủ như vậy, nay tặng thêm một thanh đao nữa, hy vọng có thể tận lực dùng nó.”

Tiếp sau đó lại là một thanh trường đao được đưa đến tận tay, Hoắc Thời Anh đành phải ngoan ngoãn nhận lấy, đang chuẩn bị thả tay xuống để tạ ơn, thì không ngờ phía đội diện lại nói: “Tướng quân xin đừng vội, vẫn còn một thứ nữa.”

Hoắc Thời Anh bất đắc dĩ lại phải ngẩng đầu lên, Lưu Phúc Tài ngoắc tay về phía sau: “Dắt qua đây.”

Một con tuấn mã toàn thân đen tuyền, lông mềm mịn bóng mượt được người dắt xuất hiện ngay trước mắt Hoắc Thời Anh, Hoắc Thời Anh đã từng gặp qua vô số chủng ngựa, lúc này trong bụng thầm kêu lên một câu: “Ngựa tốt!” Con ngựa này đã ở trên thuyền lắc lư suốt mấy ngày trời, nhưng không hề thấy có chút mệt mỏi nào, ánh mắt sáng long lanh, là một chú ngựa vừa mới trưởng thành.

Lưu Phúc Tài nói: “Con ngựa này. Quả đúng là trong trăm con mới tìm được một, hồi đầu lúc chọn nó, nó không phải là con chạy nhanh nhất đâu, nhưng lại là con có sức bền nhất, hơn thế còn càng chạy càng nhanh, một ngày phi được tám trăm dặm, đúng là thiên lý lương câu.” 

(Thiên lý lương câu dùng để chỉ một con ngựa tốt, có thể chạy được ngàn dặm.)

Hoắc Thời Anh vừa nhìn thấy con ngựa đã thấy thích ngay, không kìm được thò tay ra xoa xoa đầu nó hỏi: “Nó tên là gì?”.

Lưu Phúc Tài nói nhỏ: “Người tặng quà cho cô nói, con ngựa này là chọn riêng cho cô, nên để tự cô đặt tên.” Lời vừa dứt, bàn tay của Hoắc Thời Anh lại giống như sờ phải bỏng, xoa xoa tay thu lại.

Vì thế cứ hễ nhìn thấy con ngựa đó là trong lòng Hoắc Thời Anh lại thấy khó chịu, nhưng nàng thực sự rất thích nó, mâu thuẫn quá, ánh mắt nhìn con ngựa đầy phức tạp, Lưu Phúc Tài ở bên cạnh còn hỏi thêm một câu: “Tướng quân định đặt tên cho nó là gì? Cô nói cho tiểu nhân nghe đi, để lúc quay về tiểu nhân tiện bề bẩm báo?”. Nghe thế trái tim Hoắc Thời Anh lại càng nghẹn đến phát hoảng.

Đúng vào lúc ấy, bên cạnh đột nhiên vang lên một giọng nói cợt nhả: “Con ngựa đen sì này, chẹp chẹp, không có lấy một sợi lông tạp, đen, đen thật, vậy thì tên của nó phải có một chữ Hắc mới hợp, Hắc gì bây giờ gì?”.

Hoắc Thời Anh đã phát hiện có người đang tới gần từ lâu, nhận ra đó một binh lính, nhưng người qua kẻ lại nhiều nên nàng cũng không chú ý kỹ, đột nhiên nghe thấy cái giọng bông đùa ấy liền giật bắn mình, quay phắt đầu lại hét to: “Tần Xuyên?!”.

“Sao ông lại ở đây? Ai cho ông tới đây?”.

Tần Xuyên hốt hoảng nhảy lùi lại phía sau như một con khỉ, chỉ vào Hoắc Thời Anh nói: “Cô đừng quát vội, ta có thủ dụ của tướng quân, cha cô, cha cô bảo ta đến.”

Gân xanh trên trán Hoắc Thời Anh gồ lên, nghiến răng nghiến lợi nói: “Quay về cho ta, có biết ta tới đây làm gì không hả? Định gây thêm rắc rối cho ta chắc?”.

Nửa tháng trước Tần Xuyên vẫn còn đang cự nự với Hoắc Thời Anh, lúc Hoắc Thời Anh xuất phát từ Dương Châu đến quân doanh để tìm ông ta, khi ấy ông ta còn đang mải đánh bài cửu (1), đang lúc máu cờ bạc lên cao, Hoắc Thời Anh đứng ở trước cửa lều gọi ông ta, ông ta cũng không thèm để ý, ngày hôm sau lúc Hoắc Thời Anh lên đường cũng không thấy bóng dáng ông ta đâu, ai ngờ giờ ông ta lại tự mình chạy tới đây.

(Bài cửu là một dạng domino của Trung Quốc.) 

Tần Xuyên ngoẹo đầu trêu nàng: “Không phải không thể rời xa ta được sao, vừa hay ta chạy tới đây cho cô ngắm để mà yên tâm.” Sau đó ông ta lại nghiêm chỉnh hẳn lên tiếp tục nói: “Ta nói cho cô hay, cô đừng chỉ nghĩ cho bản thân cô, cô tưởng có mình cô biết lo lắng đấy chắc, biết cô ở đây mà ta yên tâm được à? Cả ngày ăn không ngon ngủ không yên, về sau ông đây nghĩ, thôi đành, dù sao ông đây cũng nợ cô mà, nên nhất định phải tới trông chừng cô, con nhỏ khốn khiến nhà cô đáng lẽ hồi đầu ông đây không nên lôi cô ra khỏi cái đống người chết đó mới phải, để giờ ám quẻ ông đây suốt bao nhiêu năm.” 

Hoắc Thời Anh chết sững hồi lâu, cuối cùng không nhịn được nhấc chân đạp một cú vào đùi Tần Xuyên, sau đó không thèm để ý tới ông ta nữa.

Hoắc Thời Anh lơ đẹp Tần Xuyên xong, liền quay sang xin lỗi Lưu Phúc Tài, chứng kiến bọn họ cãi nhau lúc vừa nãy Lưu Phúc Tài cũng không hề mất hứng, còn tủm tỉm cười xem rất nghiêm túc, dáng vẻ cực kỳ có hàm dưỡng, Hoắc Thời Anh xin lỗi ông ta, ông ta liền ra sức xua tay nói: “Không có gì, không có gì.”

Lưu Phúc Tài vẫn còn muốn chờ lấy cái tên Hoắc Thời Anh đặt cho con ngựa để mang về, Hoắc Thời Anh không còn cách nào khác đành bảo, trong một chốc một lát thì nàng không nghĩ ra được, con ngựa này nàng nhìn đã thấy thích, tùy tiện đặt một cái tên thì sợ phí cho con ngựa quá. Vì thế cho nàng thời gian để nghĩ thêm, Lưu Phúc Toàn cũng không thúc ép, rất khách khí cáo từ.

Hoắc Thời Anh tiễn Lưu Phúc Tài về, giữa trời đông lạnh buốt mà trán ướt đẫm mồ hôi.

Lúc Hoắc Thời Anh quay lại phát hiện ra Tần Xuyên đang bắt chuyện với Phùng Tranh, con người ông ta ở đâu cũng lăn lộn được lại biết điều, hiểu rằng muốn ở lại trong quân doanh, thì ngoại trừ Hoắc Thời Anh ra, Phùng Tranh cũng là người phải tạo dựng mối quan hệ thật tốt, chỉ thấy ông ta móc từ trong người ra một tờ giấy đưa đến trước mặt Phùng Tranh: “Vâng, ngài đọc đi, đây là thủ dụ của tướng quân, tiểu nhân lừa ngài làm gì?”.

Phùng Tranh nhận lấy nghiêm túc đọc sau đó nói: “Ừ, đúng là ấn quan của tướng quân, bên trong chỉ nói cho ngươi lên thuyền, chứ không bảo bọn ta tiếp nhận ngươi.”

Tần Xuyên “Á” một tiếng há hốc miệng đứng ngẩn người tại chỗ, Hoắc Thời Anh biết Tần Xuyên không biết chữ, có lẽ trong thư viết những gì ông ta căn bản cũng không biết, đành phải lên tiếng nói: “Sắp xếp ông ta vào đồn thân vệ đi, để ta trông chừng cho tránh để ông ta gây chuyện đến ngài.”

Phùng Tranh gấp thư lại trả cho Tần Xuyên rồi rảo bước tới chỗ Hoắc Thời Anh, nàng liền hỏi hắn: “Chỉnh đốn hàng ngũ xong xuôi rồi à?”.

Phùng Tranh lắc lắc đầu, ý bảo nàng tự mình đi xem, chỉ thấy từ đằng xa dưới bầu trời đầy sao, mới có một lát mà hàng nghìn người đã thay xong quần áo, xếp thành hai hàng đầu cuối nối đuôi nhau, gần bảy nghìn người ngựa lặng ngắt như tờ, Hoắc Thời Anh thầm cảm thán, Tổng đốc binh mã Ung Châu Trần Mộ Đình xông pha sa trường suốt nửa đời người, bình định Tân Cương chiến công hiển hách, quả nhiên là thật sự có bản lĩnh, tuy rằng con trai do ông ta dạy dỗ chẳng ra làm sao, nhưng binh lính do ông ta dẫn dắt, chỉ trong một khoảng thời gian ngắn mà quân kỷ đã được thế này, Hoắc Thời Anh tự hỏi với loại thủ đoạn này nàng chắc phải mất đến bốn năm năm tu luyện mới bì được.

Trời còn chưa sáng nhưng toàn quân đã chỉnh trang chuẩn bị xuất phát, dọc đường Tần Xuyên đặt con cho ngựa ô một cái tên, là Hắc Tử, vốn dĩ ông ta muốn gọi nó là Trân Châu Đen, nhưng Hoắc Thời Anh cảm thấy lấy cái tên này đặt cho con ngựa quả thực hơi khó nghe, cuối cùng miễn cưỡng nghe theo Tần Xuyên gọi là Hắc Tử.

Sau khi Tần Xuyên đến, cuộc sống của Hoắc Thời Anh tốt hơn hẳn, từ Dương Châu ông ta mang tới một hũ dưa muối và một vò tương đậu nành do Nguyệt nương làm, Tần Xuyên còn biết nấu cơm, thỉnh thoảng Hoắc Thời Anh có thể được ăn những món do ông ta nấu, hơn thế con người Tần Xuyên tếu táo, nghe ông ta lải nhải bên cạnh, Hoắc Thời Anh nói tào lao qua lại với ông ta dăm ba câu cũng cảm thấy thời gian trôi qua nhanh hơn.

Nhưng cũng chẳng được bao lâu, ba ngày sau là đánh trận.

Thật ra Hoắc Thời Anh đã dẫn theo một đám quân của người Khương theo sau mông lòng vòng được ba ngày rồi, ngay từ hôm đầu tiên khi trên bầu trời xuất hiện một con chim ưng nàng đã biết bọn nàng đang bị theo dõi, toàn bộ ba trăm người của đồn trinh thám được phái đi điều tra suốt ngày, đã nhanh chóng thu được tin tình báo gửi về: “Đội quân đi theo bọn họ, không giống như trước kia, tốc độ hành quân không nhanh, một người hai ngựa, ước chừng có năm nghìn người, vì thế Hoắc Thời Anh chỉ biết kình địch của bọn họ tới rồi, chính là đội quân mà đến chính người Khương nghe tên thôi đã sợ mất mật, Hắc Giáp quân.

Sang đến ngày thứ ba, đại quân hành quân tới Lộc Dã, nơi đây nằm ở phía Tây Bắc bộ của bình nguyên Ký Trung, địa hình nơi đây rộng lớn, đồi núi lại không nhiều, Hoắc Thời Anh bạo gan chọn nơi rộng lớn tầm nhìn trống trải này để nghênh địch.

Đến trưa, trời đất hoang vu, gió lạnh khắp nơi thổi vù vù, bầu trời u ám không thấy bóng dáng của một con chim nào, chỉ có duy nhất một con chim ưng chao liệng phía thiên không, Hoắc Thời Anh ngước mặt nhìn trời, con chim này đã đi theo bọn họ tròn ba ngày rồi.

Vùng đất phía Bắc khô cằn, hành quân suốt mấy ngày môi miệng khô đến nứt nẻ, mọi người đa phần đều không có hứng thú nói chuyện, Hoắc Thời Anh ngồi trên lưng ngựa đưa tay sang bên cạnh, Tần Xuyên hiểu nàng nhất, liền đưa một cây cung cứng cho nàng.

Những cây cung cứng lực bắn mạnh độ dẻo dai tốt, tầm bắn xa nhất có thể lên đến ba trăm bước, nhưng những cây cung kiểu này cần sức kéo ước chừng khoảng hai trăm cân, binh sĩ kéo cung cần phải đeo nhẫn to bản (2) và găng ngón tay (3), hơn thế sau khi kéo căng xong phải lập tức thả tên ra ngay, nên rất khó để kéo dài thời gian căn ngắm cho chuẩn, tỉ lệ trúng mục tiêu không cao, vì thế bình thường toàn chuẩn bị cho bộ binh.

(Một cân ước chừng khoảng ½ kg, 200 cân thì tương đương với 100 kg.)

Hoắc Thời Anh nhận lấy cung tên, căng dây, lắp tên, giương cung quá vai, một cung hai tên, cả hai mũi đều nhắm về phía chân trời, con chim ưng lượn lòng vòng trên bầu trời cất tiếng vang vọng lảnh lót, dây cung căng hết cỡ, “vù” một tiếng, một âm thanh xé gió vang lên, đầu mũi tên mắt thường không thể thấy được xoay tròn với tốc độc nhanh như cắt đâm toạc bầu không khí bắn ra, con chim ưng trắng kêu lên một tiếng chói tai, đầu chim lao thẳng lên phía trời xanh, chỉ thấy một mũi tên lông vũ bay đến nửa không trung rồi một mảng lông trắng bị bắn tung ra, sau đó con chim vỗ cánh bay vụt lên cao, trong lòng mọi người liền trầm xuống, mũi tên thứ hai lập tức bay xẹt ra như một tia chớp, dường như mọi người nghe thấy tiếng “phập” khi mũi tên cắm xuyên qua da thịt, âm thanh rên rỉ mới được kêu được nửa chừng lập tức tắt lịm, con chim ưng trắng cùng với mũi tên xuyên qua đầu, lao thẳng xuống đất. 

Hoắc Thời Anh vứt cung tên ra phía sau, trầm giọng hạ lệnh: “Toàn quân! Nghênh địch!”.

1. Bài cửu:



2. Nhẫn to bản (扳指) vừa là một dụng cụ để bảo vệ ngón tay khỏi bị trầy xước khi bắn cung, vừa được dùng làm đồ trang sức cho đàn ông thời phong kiến xưa, thường được đeo ở ngón tay trái.





3. Găng ngón tay (指套):