Tử Trúc Phong không có người ngoài ra vào, nên Trọng Hoa cung rộng lớn như vậy mà luôn có vẻ lạnh lẽo, trống vắng, không có lấy một bóng người. Qua vài ngày, sự mới mẻ hứng thú đã qua đi, lại không có bài học, bài luyện gì mới, Trọng Tử nhanh chóng cảm thấy nhàm chán. Thật ra, các đệ tử Nam Hoa ngoại trừ việc bị cấm xuống núi một mình ra thì đều được tự do. Trong tình cảnh chẳng còn gì thú vị, Trọng Tử đột nhiên nhớ tới một người, vì thế mới sáng sớm đã rời khỏi Tử Trúc Phong, hướng tới ngọn núi cao nhất có Lục Hợp điện tọa vì chạy đến.

Lục Hợp điện nhìn qua vẫn vô cùng trang nghiêm, rất nhiều đệ tử ra vào, bên trong mơ hồ truyền đến giọng nói của Mẫn Vân Trung. Trọng Tử sợ nhất người này, làm sao còn dám đi vào, nên vội vàng tránh đi. Cô bé vô tình men theo hành lang đi tới cửa một đại điện khác, giương mắt nhìn lên thì thấy trên cửa đại điện có viết ba chữ rất to.

Trọng Tử không biết chữ nên không biết trên đó viết gì, nghi hoặc đứng nhìn.

“Trọng Tử, ngươi muốn làm gì.” Có người chợt đẩy mạnh cô bé một cái.

Quay người nhìn lại, Trọng Tử cảm thấy người vừa đến nhìn có chút quen mắt, nghĩ nghĩ mới nhớ ra người đó là ai.

Từ khi làm đệ tử Mẫn Vân Trung, địa vị của Văn Linh Chi ở Nam Hoa phái hẳn là không nhỏ. Hiện Văn Linh Chi đang cùng mấy nữ đệ tử khác đi đến Lục Hợp điện, không ngờ lại gặp Trọng Tử ở đây. Nàng ta vẫn luôn giữ trong lòng chuyện Tần Kha che chở cho Trọng Tử khi ở trên biển, sau đó Trọng Tử lại còn được Lạc Âm Phàm thu nhận làm đồ đệ nữa chứ, oán càng thêm oán, căm giận bất bình lại càng thêm chồng chất. Lúc này gặp mặt ở đây, khó tránh khỏi muốn trêu đùa ác ý khiến cho Trọng Tử nhục nhã một phen.

Trọng Tử chỉ là một đứa trẻ mười tuổi. Cảm thấy nàng ta đối với mình không chút khách khí, tất nhiên là cũng sẽ không thích gì nàng ta, cúi đầu muốn bỏ đi.

Văn Linh Chi thấy vậy lại bước lên ngăn Trọng Tử lại: “Trọng Tử, ngươi dám xem thường tôn trưởng.”

Trọng Tử lúc này mới nhớ nàng ta là đệ tử của Mẫn Vân Trung, luận về bối phận là cùng thế hệ với sư phụ Lạc Âm Phàm, vậy nên mình phải hành lễ gọi một tiếng ‘sư cô’ mới đúng đạo lễ nghĩa, bất đắc dĩ đành phải cúi đầu cung kính: “Sư cô gọi con có việc gì chăng?”

Ánh mắt Văn Linh Chi đảo một vòng, hỏi: “Ngươi đến Nam Hoa lâu như vậy rồi, đã thấy qua điện tổ sư chưa?”

Trọng Tử không hiểu, thật thà trả lời: “Thưa sư cô,Trọng Tử chưa từng thấy qua.”

Mấy nữ đệ tử kia cười rộ lên.

Văn Linh Chi lập tức nói ngay lại với vẻ khinh miệt: “Ngay cả chữ mà còn không biết, điện tổ sư ở ngay trước mắt cũng không biết, như vậy lại còn không biết xấu hổ khi mang danh đồ đệ của Trọng Hoa tôn giả.”

Trọng Tử xấu hổ đến mức mặt đỏ bừng, nghĩ đến việc không bao lâu nữa việc này sẽ truyền đi khắp trên dưới Nam Hoa. Thật ra đã từng là một kẻ ăn mày, chuyện bị người khác cười nhạo đối với bé cũng chẳng phải là ít, nhưng không thể để sư phụ bị người ta cười nhạo được.

Văn Linh Chi đã đạt được mục đích không khỏi cảm thấy sảng khoái trong lòng, đang định lại hạ nhục cô bé thêm một lần nữa, chợt một giọng nói ôn hòa vang lên từ phía sau: “Với tuệ nhãn của Trọng Hoa tôn giả, người muốn thu nhận ai làm đồ đệ, tất có đạo lý của mình, không đến phiên chúng ta lén bàn ra tán vào ở sau lưng người.”

Đám nữ đệ tử lúc này không ai dám lên tiếng.

Diện mạo tuy bình thường, nhưng mỗi hành động, cử chỉ lại có một loại mị lực đặc biệt, khí độ xuất chúng mà nội liễm. Dẫu trong lời nói luôn ẩn chứa một sự thân thiết và gần gũi, nhưng các sư huynh sư đệ trên dưới Nam Hoa không ai dám bất kính. Thoạt nhìn chỉ mới hai mươi mấy tuổi, nhưng lại luôn cho người ta cảm giác ổn trọng đáng tin cậy. Trong mắt Trọng Tử, Mộ Ngọc có chút giống giống Lạc Âm Phàm.

Trước mặt là thủ tọa đệ tử phái Nam Hoa, là đồ đệ đáng tự hào nhất của Mẫn Vân Trung, đồng thời cũng là người mà chưởng giáo tín nhiệm nhất. Văn Linh Chi đương nhiên biết nên làm gì, vội vàng cúi đầu thi lễ, giống như vô cùng hổ thẹn: “Linh Chi nói năng thiếu cẩn thận, đa tạ Mộ sư huynh chỉ dạy.”

Mộ Ngọc cũng không trách cứ gì nhiều, gật đầu: “Sư phụ ở Lục Hợp điện, mau đi đi.”

Văn Linh Chi và mấy nữ đệ tử nghe vậy như được đại xá, vội vàng rời đi.

Trọng Tử cúi đầu chào: “Mộ sư thúc.”

Mộ Ngọc nhẹ nhàng ngồi xổm xuống trước mặt Trọng Tử, mỉm cười nhìn cô bé: “Trọng Tử, con không cần để ý tới các muội ấy làm gì cả, Trọng Hoa tôn giả chưa bao giờ thu nhận đồ đệ, nay tự dưng lại cho phép con bái người làm thầy, điều đó chứng tỏ con là tốt nhất, con nhớ kỹ chưa nào?”

Trong các đệ tử núi Nam Hoa, thanh danh của y vốn rất tốt, bây giờ lại thấy y quả nhiên là rất gần gũi, Trọng Tử cảm thấy cảm kích trong lòng vô cùng, liền nghiêm túc mở to mắt nói lớn: “Trọng Tử đã nhớ kỹ, thưa sư thúc.”

Mộ Ngọc nhẹ nhàng vỗ vỗ lên bả vai nhỏ gầy guộc của cô bé, đứng lên: “Con không ở Tử Trúc Phong, mà đi tới đây làm gì?”

Trọng Tử thành thật trả lời: “Con đến tìm Tần Kha... à sư huynh để chơi, huynh ấy không ở đây sao?”

Mộ Ngọc nói: “Chưởng giáo mệnh cho cậu ấy lên Ngọc Thần Phong tu luyện kiếm thuật rồi, người ngoài không được quấy rầy, có lẽ trong vài năm tới con không gặp được cậu ấy đâu.”

Trọng Tử “A” lên một tiếng, trong lòng tràn đầy thất vọng.

Mộ Ngọc hỏi: “Trọng Hoa tôn giả không dạy con tiên thuật sao?”

Trọng Tử thật thà trả lời: “Sư phụ nói con chưa thể tu luyện tiên thuật được.”

Mộ Ngọc khẽ nhíu mi, rồi giãn ra ngay lập tức: “Không tu cũng không sao, Trọng Tử như vậy cũng rất tốt rồi.” Mộ Ngọc đưa ngón tay chỉ lên ba chữ trên điện tổ sư: “Ba chữ kia đọc là ‘tổ sư điện’, để ta dẫn con vào thăm nhé.”

Điện Tổ sư không khí phách như Lục Hợp điện, nhưng lại có vẻ trang nghiêm, tôn quý hơn vài phần. Khắp điện tràn ngập vẻ lạnh lẽo, trên bàn thờ đối diện không có lấy một hạt bụi, phía trên đặt một lư hương lớn, trên vách đá treo mấy bức họa, ngoài ra còn rất nhiều bức họa cuộn tròn lại đặt ở trên mặt đất. Trong đại điện, có vài ba đệ tử tụ tập lại nói chuyện, thấy Mộ Ngọc đi vào bọn họ đều cúi đầu hành lễ. Mộ Ngọc quay sang phân phó vài câu, bọn họ đều lui ra ngoài việc ai nấy làm.

Mộ Ngọc kéo Trọng Tử đi đến trước bàn thờ, nhẹ giọng cung kính nói: “Đây là nơi thờ cúng tổ sư các triều đại của phái Nam Hoa, vậy nên nó được gọi là điện tổ sư. Ngày chín tháng chín hàng năm là ngày kỷ niệm lập phái Nam Hoa Kiếm Tiên, các đệ tử Nam Hoa đều phải tới đây tế bái tổ sư.”

“Mộ sư thúc, kia là cái gì?” Trọng Tử bỗng nhiên kéo tay áo Mộ Ngọc, giống như vừa nhìn thấy thứ gì đó vô cùng đáng sợ.

Đó là một chiếc lệnh bài lớn bằng bàn tay, treo lơ lửng phía trên bàn thờ, hình dáng cong cong như một cây đao, không biết làm bằng chất liệu gì, mà phía trên bề mặt của nó có một ánh sáng màu đỏ sậm không ngừng chuyển động, rất quỷ dị.

Mộ Ngọc “À” một tiếng, rồi liền giải thích: “Đó là thiên ma lệnh, là... lệnh bài của một vị ma tôn, trong trận đại chiến tiên – ma năm năm trước, thiên tôn thi triển thượng cổ thuật, là tiên thuật sở truyền vĩ đại nhất của tiên môn, cuối cùng đã chém được ma tôn dưới kiếm của người, khiến cho ma thần tuẫn tán ngay sau đó, thiên tôn cũng bởi vậy mới bị trọng thương mà chết. Khối thiên ma lệnh này từ đó được đưa về Nam Hoa trấn giữ.”

Từ lúc bước vào điện, trong lòng Trọng Tử liền có ngay cảm giác bất an không rõ, giờ phút này chợt phát hiện ra thứ làm mình bất an chính là cái lệnh gì đó, cho nên mới hỏi. Giờ lại nghe Mộ Ngọc nói vậy không khỏi sợ hãi tới mức lắp bắp: “Ma... Ma tôn ?”

Mộ Ngọc gật đầu: “Trên cái lệnh bài đó có lời thề vạn ma, dùng để hiệu lệnh vạn ma.”

Trọng Tử lui về phía sau Mộ Ngọc: “Nếu người khác trộm nó đi làm chuyện xấu thì sao?”

Mộ Ngọc khẽ cười đưa tay kéo Trọng Tử ra: “Con không cần phải sợ, nó dùng để hiệu lệnh vạn ma, một vật quan trọng như thế, tất nhiên ma tôn cũng lo sợ sẽ bị người khác đánh cắp mất, nên đã dùng ma cung cấm thuật phong ấn nó rồi, trừ ma tôn ra, không ai có thể giải trừ phong ấn của nó. Nay ma tôn đã hồn tan phách lạc, không cần phải đề phòng nữa. Nên chưởng giáo mới mang nó đưa tới nơi này, đầu tiên là để nhớ ơn thiên tôn, sau đó là để cảnh báo, nhắc nhở các đệ tử.”

Trọng Tử nhẹ nhàng thở ra: “Ngoại trừ ma tôn, thật sự không còn ai có thể sử dụng được nó sao?”

Mộ Ngọc nói: “Người chảy cùng dòng máu với vị ma tôn kia cũng có thể giải được phong ấn của nó. Nhưng mà vị ma tôn đó lại không hề có huyết thống lưu lại.”

Trọng Tử sau giây phút sửng sốt, lại ngửng mặt nhìn lại một lần nữa.

Thiên ma lệnh đang treo cao cao giữa không trung, giống như một cặp mắt vô hình đang nhìn chằm chằm vào cô bé. Giống như đang gọi bé, lại dường như nhẹ nhàng chớp động.

Trọng Tử lại càng thêm hoảng hốt: “Mộ sư thúc, chúng ta ra ngoài đi.”

Tâm tư của trẻ con đều biểu hiện ra hết trên mặt, Mộ Ngọc nhìn thấy là lạ, liền hỏi ngay: “Con làm sao vậy?”

“Con sợ.” Trọng Tử không dám nói ra mọi chuyện, chỉ quanh co rồi vội vàng nói: “Sư thúc, con đi về trước đây.”

Nói xong, cô bé liền chạy ra khỏi cửa ngay lập tức, để lại Mộ Ngọc với vẻ mặt mờ mịt.

Ma tôn gì đó thật sự quá đáng sợ, thiên ma dường như muốn nói chuyện với mình! Trọng Tử vô cùng hoảng sợ, hạ quyết tâm từ nay sẽ không đến điện tổ sư nữa. Vội vàng hướng về phía Tử Trúc Phong chạy đi, trên đường trở về lại gặp phải Mẫn Vân Trung, sắc mặt âm trầm của Mẫn Vân Trung thiếu chút nữa đã dọa cho cô bé cả người đầm đìa mồ hôi lạnh.

Liên tục trong vài ngày, chiếc lệnh bài màu đỏ sậm kia luôn xuất hiện trong giấc ngủ của Trọng Tử. Trong giấc mộng, ánh mắt vô hình trên chiếc lệnh bài kia luôn nở nụ cười nhìn cô bé. Trọng Tử thường thường giật mình tỉnh giấc lúc nửa đêm, cũng may bé vốn là một đứa trẻ ăn mày, thường xuyên ngủ dưới mái hiên nhà người khác, nên ác mộng đối với cô bé mà nói cũng chẳng phải là thứ gì quá đáng sợ. Nửa tháng trôi qua, ấn tượng trong đầu cô bé dần dần phai nhạt, cô bé rốt cuộc cũng đã quên hẳn việc đó.

Những ngày kế tiếp, Trọng Tử càng ngày càng cảm thấy vô vị, nhàm chán.

Các sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội đều có bài học, bài luyện, chỉ có mỗi Trọng Tử là không có việc gì để làm, khiến cô bé không khỏi rầu rĩ buồn chán. Cô bé cố gắng ít đi qua các ngọn núi khác ở Nam Hoa, ngoại trừ vì ghét gặp phải Văn Linh Chi, lý do lớn nhất chủ yếu là bé phát hiện các sư huynh, sư thúc hình như đều có gì đó phòng bị mình. Chắc chắn duyên cớ hơn phân nửa là bởi vì ‘sát khí’ gì đó mà chưởng giáo đã nói, chỉ có mỗi Mộ Ngọc là vẫn đối đãi với bé như trước. Nhưng đáng tiếc, Mộ Ngọc thân là thủ tọa đệ tử, vừa có nhiều việc để làm lại vừa phải tu luyện, Trọng Tử không thể tối ngày quấy rầy y được.

Khắp nơi ở núi Tử Trúc là biển mây mờ mịt, nhìn mãi cũng trở nên buồn tẻ, vô vị.

Đêm hôm đó, Lạc Âm Phàm đã dạy Trọng Tử phương pháp hít thở hấp thụ linh khí, ngay hôm sau đến kiểm tra phát hiện thấy cô bé đã có thể tự thu thập linh khí được rồi, từ đó chẳng thấy hỏi han gì đến bé nữa, trước lúc đi cũng chẳng thấy giao bài học gì mới. Mỗi ngày hoặc là sáng sớm đã đi ra ngoài, đến tận tối khuya mới trở về, không thì cũng là nhốt mình cả ngày trong điện xử lý công việc này nọ. Trọng Tử không vào được trong cái điện đó, thời điểm duy nhất mà Trọng Tử có thể đi vào chính là lúc Lạc Âm Phàm không ngồi trong điện, Trọng Tử thử gọi hắn vài tiếng, nếu hắn nghe thấy thì sẽ dỡ bỏ pháp thuật để bé bước vào, rồi sau đó hỏi han không thấy có việc gì lại bảo bé ra ngoài.

Trọng Tử rất thất vọng.

Các sư huynh, sư đệ, sư tỷ, sư muội khác nếu muốn gặp sư phụ thì gặp được ngay. Ngay cả Mẫn tiên tôn nghiêm khắc như vậy, mà cũng luôn để Linh Chi đi theo bên người.

Trọng Tử cố gắng muốn học thật tốt để được sư phụ thích, nhưng bé học càng tốt thì sư phụ lại càng mặc kệ bé.

Cửa đại điện mở ra, một bóng dáng trắng như tuyết xuất hiện ở trên các bậc thang.

Trọng Tử chờ ở ngoài điện đã khá lâu, sớm hạ quyết tâm, thấy thế lập tức cười hì hì chạy qua ôm lấy chân sư phụ kêu lên hớn hở: “Sư phụ!”

Trên vạt áo bào trắng như tuyết bào lập tức in lại dấu mấy ngón tay nhỏ nhắn.

Bị đồ đệ ôm nhiệt tình như vậy, Lạc Âm Phàm cảm thấy không quen. Không hề biết suy nghĩ trong lòng đồ đệ, cúi nhìn xuống thấy cả người đồ đệ vô cùng dơ bẩn, không khỏi nhíu mày.

Dễ dàng nổi giận thì không phải Lạc Âm Phàm .

Hắn chỉ cho rằng trẻ con hiếu động, nhẹ nhàng vung tay một cái, trong chớp mắt, không chỉ hắn, mà vết bẩn khắp người Trọng Tử trong giây lát liền biến đâu mất hết.

Cả người hai thầy trò lại sạch sẽ như cũ.

Trọng Tử kinh ngạc há hốc miệng.

Lạc Âm Phàm nói rất nhẹ nhàng: “Con chơi một mình đi, ta có việc phải đi ra ngoài.”

Áo bào trắng nhẹ nhàng tung bay, Lạc Âm Phàm chậm rãi bước xuống các bậc thềm, nhìn như đang lướt trên làn mây trắng, nhẹ nhàng, xuất trần, ấn tượng giống như lần đầu mới gặp, hắn cách xa như vậy đó, vĩnh viễn cũng không cách nào chạm vào được.

Trọng Tử nhụt chí ngồi xuống thềm đá, hai tay ôm má, đôi mắt to chuyển động không ngừng.Lạc Âm Phàm nhanh chóng phát hiện ra, tiểu đồ đệ này nhìn thì có vẻ như rất nghe lời đó, nhưng thật ra lại không phải như vậy. Mấy ngày qua đi, bản tính nghịch ngợm, hay gây chuyện của tiểu đồ đệ gần như bộc lộ hết ra ngoài. Lạc Âm Phàm thường thức dậy rất sớm, nhưng mỗi khi bước lên điện đã thấy tiểu đồ đệ dậy sớm hơn cả mình, đã đi vào đó trước hắn và chạy đâu mất rồi. Cũng không gây ra chuyện gì lớn lao lắm, chẳng qua là lúc thì không thấy cái chặn giấy đâu, lúc thì bút lông, giấy tờ đầy đất, có khi thì cả đại điện đều lộn xà lộn xộn hết cả lên.

Đương nhiên những việc này đối với Lạc Âm Phàm mà nói cũng chẳng phải việc gì lớn cả, chỉ cần hắn vung tay lên một cái, tất cả mọi thứ lại khôi phục nguyên trạng ban đầu mà thôi.

Lúc trước hắn chỉ cho rằng con bé còn nhỏ nên tính tình còn ham chơi, nhưng nhiều lần quá hắn bắt buộc cũng phải hoài nghi: tiểu đồ đệ này là cố ý chăng?

Chẳng hạn như, cô bé lấy mực nước đổ vào ghế, bắt được linh hạc truyền tin liền ôm cứng vào trong ngực, nhất quyết không chịu để cho nó đi. Hoặc là đổ nước trà cho ướt đẫm hết cả giấy trắng, thậm chí cầm bút tiên của sư phụ vẽ đủ thứ trên mặt đất, các bức vẽ nếu không phải là hình con rùa thì là thỏ, vẻ mặt rất đắc ý, lại còn hỏi sư phụ có đẹp không nữa.

Tất cả những điều đó đều là tính bướng bỉnh của trẻ con, cũng chẳng phải sai phạm gì lớn, nên đương nhiên Lạc Âm Phàm cũng không trách tội hay la mắng nặng nề. Chỉ là không đành lòng khi mỗi ngày linh hạc đều dùng ánh mắt thật là tội nghiệp nhìn hắn, nhiều lần quá đành phải buông lời la đồ đệ. Câu “Không được làm như vậy” đã nói không biết mấy chục lần mà kể. Nhưng nào ngờ tiểu đồ đệ lại cố tình có bệnh hay quên, tính cách thích nghịch ngợm quả thực là quá mạnh mẽ, nên coi lời dạy dỗ của sư phụ như gió thoảng bên tai, luôn tự làm theo ý mình.

Lạc Âm Phàm tính tình dù lười để ý đến đâu cũng đành phải bất đắc dĩ, đồ đệ bất trị này có lẽ nào là do trời phái tới để khảo nghiệm sự kiên trì của hắn hay không?

Cuối cùng có một ngày, khi Lạc Âm Phàm lên điện liền phát hiện ra có gì đó bất thường.

Mọi thứ trong điện đều ở nguyên chổ cũ, trên ghế cũng không hề có mực, trên bàn sạch sẽ không dính một hạt bụi, nhưng linh hạc truyền tin lại lo lo lắng lắng đứng nguyên tại chỗ của nó, dường như có chút chần chờ. Sau một lúc lâu mới chịu mang thư bay đi.

Đó là lá thư tối qua Lạc Âm Phàm viết gửi cho chưởng môn Thanh Hoa cung, đã được bỏ vào phong bì cẩn thận, đã dùng pháp thuật tiên gia để phong ấn lại rồi.

Một dự cảm không tốt chợt mơ hồ dâng lên, Lạc Âm Phàm vội vàng gọi linh hạc quay lại.

Quả nhiên, lá thư vẫn nguyên vẹn. Chỉ là trên mặt phong bì còn được vẽ thêm 1 con rùa thật bự, hơn nữa còn được vẽ bằng loại mực Băng thai! Ban đầu để đề phòng có người chỉnh sửa thư tín, nên tiên môn mới đặc chế ra loại mực băng thai này, sử dụng loại mực đó để viết, thì cho dù dùng pháp thuật cũng không cách nào xóa bỏ hay sửa đổi gì được cả.

Nhìn con rùa thật lớn đó, da đầu Lạc Âm Phàm run lên, may mắn là phong thư này chưa được đưa đi, nếu không phái Nam Hoa sẽ mang tiếng lớn rồi.

Đã đến lúc phải dạy dỗ tiểu đồ đệ hay gây chuyện này một chút rồi.

Lạc Âm Phàm nhẹ nhàng hít vào một hơi, gọi: “Trọng nhi! Trọng nhi!”

Giống như đã chờ sẵn ở bên ngoài, tiểu đồ đệ bằng tốc độ nhanh nhất vọt vào trong điện: “Sư phụ gọi Trọng nhi?”

Lạc Âm Phàm chưa từng thu nhận đồ đệ, nhưng bản thân mình cũng đã từng là đồ đệ, đã từng thấy các sư thúc, sư huynh dạy dỗ đồ đệ. Cũng biết khi đồ đệ không nghe lời thì bản thân là sư phụ phải tỏ vẽ bất mãn như thế nào rồi, vì thế nghiêm mặt lại, ném lá thư kia đến trước mặt Trọng Tử, nghiêm giọng: “Quỳ xuống!”

Trọng Tử không chút do dự, ngoan ngoãn quỳ xuống.

Tiểu đồ đệ bướng bỉnh thế mà lại dễ dàng nghe lời đến thế sao, Lạc Âm Phàm ngẩn người. Lúc này cơn giận đã tiêu tan hơn một nửa, một lúc lâu sau mới nói: “Lúc trước sư phụ đã dạy con ra sao , con đã đáp lời sư phụ như thế nào? Con còn nhớ lời sư phụ răn dạy hay không? Lẽ nào con đã quên rồi?”

Trọng Tử nhỏ giọng trả lời: “Dạ không ạ.”

Lạc Âm Phàm nói tiếp: “Vậy là con cố tình bướng bỉnh?”

Trọng Tử cúi đầu xuống, không hề hé răng.

Thấy dáng vẻ ấm ức của đệ tử, tim Lạc Âm Phàm cũng mềm ra, nhẹ giọng khuyên bảo: “Sau này không được như vậy nữa, con đi xuống đi.” Bỗng nhiên hắn nhớ ra câu này đã nói cả mấy chục lần rồi, nhưng hầu như lần nào cũng chẳng có chút hiệu quả nào cả, lập tức lại bỏ thêm vào một câu: “Nếu lại bướng bỉnh không chịu nghe lời, sư phụ sẽ phạt con thật nặng.”

Trọng Tử yên lặng đứng dậy bước ra ngoài.

Vội vàng viết lại phong thư, Lạc Âm Phàm lắc đầu ngồi vào bàn, một lần nữa đề bút. Không biết vì sao, trước mắt bỗng nhiên hiện cặp mắt to tròn đen lóng lánh kia, trong lòng dâng lên nhiều dự cảm xấu.

Sự thật lại một lần nữa chứng minh, dự cảm của hắn là chuẩn xác.

Ngày hôm sau, sau khi rời khỏi giường, Lạc Âm Phàm nhớ ra hình như mình đã quên cất thứ gì đó ở đại điện, vội vàng chạy lên điện một lát, lúc trở về thì phát hiện phòng mình đã có người bước vào. Quả nhiên, cây trâm thường dùng hằng ngày tìm thế nào cũng không thấy.

Thật ra cây trâm đó cũng chẳng phải thứ trân quý gì, chỉ là dùng quen rồi, bây giờ không có cứ cảm thấy thiếu thiếu cái gì đó.

Một dự cảm không tốt chậm rãi hình thành trong đầu…

Sau khi sửng sốt một lúc lâu, Lạc Âm Phàm tóc tai buông xõa rối bù bước ra khỏi phòng để xác thực dự cảm của mình, quả nhiên thấy Trọng Tử đang nằm úp sấp trên bờ suối, dùng cây trâm chọc chọc vào trong nước!

Lạc Âm Phàm dở khóc dở cười: “Trọng nhi! Trọng nhi!”

Trọng Tử nhìn thấy sư phụ, đứng bật dậy chạy ào tới: “Sư phụ.”

“Sao con lại tự tiện lấy đồ của sư phụ?”

“…”

Lạc Âm Phàm đương nhiên sẽ không nổi giận với trẻ con, nhưng tiểu đồ đệ này của hắn sao lại bất trị thế này, ngay cả sư phụ cũng không để vào mắt, dung túng là cách dạy dỗ đồ đệ phi giáo dục nhất, cho nên phải trách phạt thật nặng. Vì thế, Lạc Âm Phàm trầm mặt lại: “Không coi sư phụ ra gì, phạt con quỳ ở đây hai canh giờ!”

Trọng Tử đành phải quỳ xuống.

Lạc Âm Phàm cầm lấy ngọc trâm, xoay người bước lên điện.

Chẳng bao lâu sau, bên ngoài điện truyền đến tiếng khóc rấm rứt.

Phạt một đứa trẻ như vậy, có phải hơi nặng không nhỉ? Lạc Âm Phàm không thể ngồi yên, đứng dậy đi ra ngoài xem thử, quả nhiên là tiểu đồ đệ đang khóc.

“Con làm sao vậy?”

Trọng Tử ngẩng khuôn mặt nhỏ nhắn, đẫm nước mắt lên nói: “Sư phụ, con… Chân đau… đau.”

Rốt cuộc thì đồ đệ này cũng là tuổi còn nhỏ, mà bướng bỉnh lại vốn là thiên tính của trẻ con, Lạc Âm Phàm không đành lòng trách phạt tiếp, đưa tay đỡ Trọng Tử đứng dậy: “Nhớ kỹ lời sư phụ dạy, sau này phải sửa đổi.”

“Sư phụ thật tốt, Trọng nhi nhất định sẽ nghe lời.” Trọng Tử ôm lấy hắn chân, trong đôi mắt lóe lên ánh sáng trêu chọc tinh quái.

Lại hai ngày đi qua, Lạc Âm Phàm rốt cục suýt chút nữa là nổi điên lên.

“Trọng nhi! Trọng nhi!”

Sống một mình ở Tử Trúc Phong, không có người ngoài nào dám đến quấy rầy, bởi vậy Lạc Âm Phàm thường cả mấy ngày liền không nói lấy một câu. Nhưng hôm nay, hắn phát hiện ra, số lần mình mở miệng rõ ràng đã tăng lên rất nhiều, mà trong đó câu nói nhiều nhất chính là hai chữ này. Mà bóng dáng bé nhỏ kia luôn dùng tốc độ nhanh nhất để xuất hiện trước mặt hắn. Không học tiên thuật mà có thể chạy nhanh đến thế, giống như luôn luôn chờ hắn gọi tới vậy, dường như thật sự là đang mong chờ được nghe hắn gọi. Điều này làm cho hắn vừa bực mình lại vừa buồn cười, chẳng lẽ tiểu đồ đệ này là thích bị phạt sao?

Hắn nghiêm khắc nhìn Trọng Tử đang đứng trước mặt: “Phạt quỳ, đi ra ngoài điện quỳ, hai canh giờ mới được đứng lên!”

Rất nhanh sau đó, ngoài điện truyền đến tiếng khóc, càng ngày càng lớn.

Chuyện khóc lóc này mới mấy ngày trước đã sử dụng một lần rồi! Lạc Âm Phàm quyết định không để ý tới nữa.

Quả nhiên, bên ngoài nhanh chóng yên tĩnh trở lại.

Lạc Âm Phàm cảm thấy trong lòng có chút lo lắng, chần chờ một lát, cuối cùng đành phải thở dài một tiếng, quyết định bước ra ngoài xem thử.

Hóa ra mình khen ngược cho tiểu đồ đệ mất rồi. Ngoài điện trống không nào thấy ai, quả nhiên là đến bóng áo cũng không thấy đâu!

Lạc Âm Phàm đau đầu vô cùng, quả thật hắn cũng chưa gặp phải tình huống như thế này bao giờ, bất luận là khi nào, ở đâu, các đệ tử tiên môn thấy hắn đều phải cung kính, cẩn trọng, nào dám làm điều gì xằng bậy. Giờ phút này hắn thật sự không thể lý giải nổi, đồ đệ của các sư huynh, sư thúc đều nghe lời, tuân thủ quy củ như vậy đấy, thế mà mình chỉ có mỗi một tiểu đồ đệ này thôi nhưng sao lại cứng đầu cứng cổ đến như vậy. Quả nhiên làm thầy không phải ai cũng làm được, cái chức vị này, muốn làm tốt cũng thật vất vả quá đi.

Người chạy mất chỉ là vấn đề nhỏ, trên Tử Trúc Phong có chuyện gì có thể giấu diếm được Lạc Âm Phàm. Trọng Tử nhanh chóng bị lôi về, quỳ gối trong đại điện.

Ngay trước mắt mình coi tiểu đồ đệ này còn chạy đi được không, hừ! Lạc Âm Phàm lại ngồi trước bàn làm việc tiếp.

Lúc này, Trọng Tử đang phải chịu phạt, quỳ ở trong điện. Nhưng lạ kỳ ở chỗ là lại hết sức im lặng, không khóc cũng không làm loạn. Chỉ mở thật to mắt nhìn sư phụ, nhìn đến xuất thần.

Lạc Âm Phàm luôn ngầm quan sát cô bé, trong lòng không khỏi cảm thấy hoảng hốt. Tiểu đồ đệ của hắn thật sự thích bị phạt sao?

Hai ba tháng nay, ngày ngày sử dụng phương pháp hít thở thu nhập khí trời, được linh khí đất trời bồi tụ. Tiểu nha đầu với mái tóc xơ xác vàng vọt, hai gò má hõm sâu trước đây đã không còn nữa. Mái tóc nay đã trở nên đen bóng, mượt mà, khuôn mặt trái xoan nhỏ nhắn đã có vài phần da thịt, sắc mặt cũng có đã có chút hồng hào. Cả người nhìn qua thuần khiết trong veo như nước. Nhất là đôi mắt kia, trắng đen rõ ràng, trong mắt là đôi đồng tử trong suốt, sáng trong, khi tĩnh lặng thì có vẻ dịu dàng, nhu mì, hiền hòa, nhưng một khi chuyển động liền trở nên thông minh kỳ lạ, lại lộ ra thêm vài phần giảo hoạt, hơn phân nửa chính là sự tinh nghịch có ý muốn nghịch phá gì đó nữa.

Bị cô bé nhìn chằm chằm, Lạc Âm Phàm rốt cục nhịn không nổi nữa, lần đầu tiên trong đời Lạc Âm Phàm hắn đi hỏi về nỗi lòng của người khác: “Con lại muốn làm gì?”

Giống như làm sai bị phát hiện, Trọng Tử lập tức đỏ lên mặt, hạ mi mắt xuống, lộ ra vài phần chột dạ.

Lạc Âm Phàm thở dài, đứng dậy đi đến trước mặt cô bé.

Cảm nhận được người trước mặt thật sự nổi giận, cuối cùng Trọng Tử cũng thấy bất an, ngẩng mặt lên: “Sư phụ...”

Lạc Âm Phàm nhìn cô bé, không nói một lời nào.

Mình quá đáng rồi sao? Trọng Tử càng thêm kinh hoảng, vội vàng gọi lại lần nữa: “Sư phụ?”

Cuối cùng Lạc Âm Phàm cũng cúi người xuống, đặt hai tay lên vai đồ đệ, nhẹ giọng nói: “Vì sao con lại cố ý làm những việc như thế, sư phụ thu nhận con làm đồ đệ, là mong muốn con học giỏi, con sao lại trở nên ương bướng không chịu nghe lời răn dạy của sư phụ, không chút tiến bộ như vậy?”

Sư phụ đã nhận ra là mình cố ý sao? Trọng Tử ngây người.

Ánh mắt đẹp nhìn chằm chằm cô bé, bên trong chứa đựng vẻ bất đắc dĩ lẫn thất vọng nồng đậm. Cũng tư thế này, khiến cho Trọng Tử nhớ đến vị thần tiên đại ca nhiều năm trước kia, nếu người ấy biết mình học tập không chút tiến bộ như vậy, cũng sẽ rất thất vọng chăng?

Trọng Tử cuối cùng chỉ mím môi, nhỏ giọng khóc rấm rứt.

Lạc Âm Phàm cảm thấy có chút hối hận, liền kéo đồ đệ nhỏ đứng dậy, nói: “Sau này không được bướng bỉnh nữa, phải nghe lời sư phụ, nhớ kỹ chưa nào?”

Đứng trước khuôn mặt hoàn mỹ đó, Trọng Tử cảm giác như hít thở không thông, nhất là trên khuôn mặt ấy lại mang đầy vẻ mong chờ. Trọng Tử không thể nào cự tuyệt được, đành phải nghẹn ngào gật đầu.

Thấy cô bé có vẻ thực sự ăn năn, hối hận. Lạc Âm Phàm xoa xoa đầu cô bé, nhẹ giọng nói: “Được rồi, con đi xuống đi.”

Trọng Tử dường như muốn nói điều gì đó rồi lại thôi, nhưng dáng vẻ kia là không tình nguyện bước ra khỏi điện.