Trời đêm rợp sao như dệt cửi, thảo nguyên mênh mông vô bờ bến, chỉ cần nín thở, ngẩng mặt trông lên trời, vào khoảnh khắc ấy, nó yên bình và đẹp như những bài thơ cổ được các cụ già trong làng kể lại thuở còn thơ, khó mà mường tượng nơi đây vừa trải qua trận chiến khốc liệt, một trận huyết chiến từ tờ mờ sáng đến tận giữa tuần trăng.

Lão Vu định thần, đập vào mắt là vô số thi thể la liệt, thoáng nghe thấy tiếng khóc gào thê thảm và tiếng chiến mã hí dài, những lá cờ gãy bay trong khói lửa thiêu xác. Binh lính rệu rã tới lui giữa bãi chiến trường, có người tìm di hài của đồng bào, có người đề phòng kẻ thù giả chết.

Không khí nồng nặc mùi máu tanh lẫn mùi khét của xác người và động vật đang cháy, nhưng gió đêm nhẹ nhàng lướt qua thảo nguyên, làm loãng đi bầu không khí chết chóc do cuộc chiến mang lại.

Lão Vu biết dù có bao nhiêu người chết đi chăng, dù còn lại bao nhiêu giọt nước mắt, mặt trời vẫn sẽ mọc và lặn, gió đêm sẽ không ngừng thổi, ngày hôm sau vẫn sẽ đến như mọi khi, như cái ngày tin báo tử của huynh trưởng cuối cùng nhà lão được đưa về, mẹ lão khóc mù mắt, nhưng hôm sau vẫn là một ngày nắng đẹp thích hợp cho việc cưới hỏi động thổ.

Lão Vu đứng thẳng vai, gánh hai xô nước nóng tiếp tục bước đi, sau lưng là hai con ngựa cũng thồ hai thùng nước nóng to tướng, cả ba cùng tiến vào căn lều mái vàng lớn nhất doanh trại. Các tướng lĩnh mặc khôi giáp khác nhau hoặc ngồi hoặc đứng, hoặc im lặng hoặc cười to, chỉ vào sa bàn khổng lồ trải trên mặt đất, bên cạnh là các học giả địa phương trung niên cao tuổi, không biết bọn họ đang nói gì, ngồi ngay chính giữa là một tướng lĩnh trẻ tuổi khôi ngô, cao to trắng trẻo.

Một thiên tướng có vẻ văn tú nghiêng đầu, nhác thấy lão Vu thì cười nói: “Cuối cùng lão Vu cũng tới! Chúng ta nhanh rửa ráy thôi, mùi tanh quá chịu không nổi!”

Trương Thiện cười đùa: “Lý tiểu nương tử của chúng ta chải chuốt ghê…”

Lý Tư nổi giận: “Vậy lần trước là tên nào đổ ba lọ phấn lên người hả! Lần sau còn trộm mặc đồ mới của ta là ta sẽ thiến ngươi!”

Các tướng sĩ cười to.

Lão Vu và hai binh sĩ rót nước nóng vào chậu nước trong góc rồi hòa nước lạnh vào. Lão Vu phục vụ một mình Hoắc Bất Nghi, những binh sĩ tùy tùng còn lại lau rửa vết máu cho các tướng lĩnh.

Cởi khôi giáp, tháo búi tóc đọng máu, lão Vu nhìn nước nóng dần đục đi, lại nhìn hổ khẩu chằng chịt vết thương của chàng trai trẻ bên cạnh, hạ giọng nói: “Nếu để Hầu gia biết, kiểu gì cũng sẽ xót đại nhân không biết giữ mình.”

Hoắc Bất Nghi nói: “Giữa chiến trường đao thương không có mắt, Thôi thúc phụ khắc biết.”

Lão Vu thở dài, không nói gì thêm. Trong lòng ông, nhân vật cao quý như Hoắc Bất Nghi phải là quý công tử có mỹ nhân vây quanh, ngựa xe sang trọng sống ở chốn đô thành phồn hoa mới phải, tại sao lại đến biên thùy hoang vu thê lương trọng trấn, tại sao lại để lưỡi đao liếm máu như thế này.

Một tướng lĩnh trung niên nói: “Hôm nay Hoắc đại nhân quá dũng mãnh, ta ngăn cũng không được, suýt bị cuốn theo vào tả tiền đạo. Nhất là buổi trưa, lúc đạo quân mặt hông tấn công đại trướng trung quân của lão tặc Cam Tà Thiền Vu, mới ngoái đầu lại đã không thấy đại nhân đâu, sợ hết hồn. Đồ ngu Trương Thiện nhà ngươi, sao lúc xông ra cùng không hét báo cho ta hả, tên chết tiệt này! Lão Vu, bao giờ về ông phải tố cáo với Thôi Hầu đấy!”

Một lão tướng bụng tròn lẳn cười theo: “Tố Thôi Hầu có ích gì, chuyện gì Thôi Hầu cũng xuôi theo đại nhân cả, ta thấy phải bảo Thôi Hầu tố lên bệ hạ!”

Lý Tư chau mày: “Hai vị tướng quân đã chừng này tuổi mà còn thích tố cáo vậy.”

Trương Thiện cười nói: “Đã lớn tuổi mà vẫn thích tố cáo, nếu là ngày trẻ ắt hẳn hai vị tướng quân đã che giấu cho đại nhân rồi, còn tố cáo gì nữa?!”

Mọi người lại cười phá lên.

Lão Vu cúi đầu bật cười. Thực ra lão Vu không già, tuổi ông xấp xỉ tuổi Thôi Hựu, ngày trẻ cũng từng làm tùy tùng cho Thôi Hựu.

Hai ba đời Vu gia bọn họ là giúp việc trong cửa tiệm nhà họ Thôi, bởi Thôi gia đối xử với người hầu rất chân thành nên trong thời buổi chiến tranh, cha mẹ lão Vu vẫn bình an nuôi được tám cậu con trai cường tráng.

Về sau Thôi gia đi theo Hoàng đế hiện tại khởi nghĩa, cha mẹ Lão vu nghe kể chuyện lâu ngày, nảy sinh khí khái, cảm thấy đã tới lúc Vu gia sắp lên đi như diều gặp gió, bèn xin Thôi Hựu cho các con trai được nhập ngũ, tiện bề kiếm công lao.

Nhưng cho dù được đích thân Thôi Hựu gửi gắm, các cậu con trai nhà họ Vu không cần đi lên từ tiểu binh, thì trong vòng chưa tới mười năm, bảy huynh trưởng của lão Vu đã lần lượt qua đời. Hai người bị giết ngay trên chiến trường, hai người bị tên bắn chết, hai người bị thương nặng không chữa trị kịp thời đã chết, còn lại một người lúc rút lui gặp sông chảy xiết, không kịp cởi khôi giáp nên đã chết chìm.

Cha mẹ lão Vu khóc cạn nước mắt, cuối cùng cũng hiểu thế nào là “nhất tướng công thành vạn cốt khô”, những người có thể kiếm được công danh giàu sang từ chiến trường đều là người ưu tú, nhân vật có thể giao chiến bước lên đỉnh chóp thiên hạ là tinh tú hạ phàm, không những phải có bản lĩnh hơn người mà còn được tổ tiên phù hộ, may mắn vô địch, bằng không sẽ khó lòng trụ tới cuối cùng.

Vậy là một lần nữa cha mẹ lão Vu tới năn nỉ Thôi Hựu, để lão Vu được làm lính tốt bên cạnh Thôi Hựu, không có công lao cũng chẳng sao, được yên bề gia thất mới là điều quan trọng. Thôi Hựu đồng ý. Kể từ đó, lão Vu dốc lòng hầu hạ Thôi Hựu trong ngoài, chu đáo không ngại khổ cực, cũng trở thành tâm phúc của Thôi Hựu.

Dần dà về sau, thiên hạ từ từ quy vào tay Hoàng đế, Thôi Hựu không cần chinh chiến thường xuyên, lão Vu trở thành lão quản sự an nhàn ở Thôi gia. Năm năm trước khi Hoắc Bất Nghi xảy ra chuyện, bị đày đến Tây Bắc xa xôi, lão Vu lại khóc lóc xin Thôi Hựu được đi cùng đến biên thùy hoang vu.

Thực ra lão Vu không biết rốt cuộc Hoắc Bất Nghi đã gặp chuyện gì, nhưng ông biết rõ một chuyện – liên quan tới lần lưu đày này, từ trong triều cho đến ngoài triều, từ đô thành cho đến Tây Bắc, ngoại trừ bản thân Hoắc Bất Nghi thì không một ai nó xem là thật.

Chưa nói đến ‘tội phạm lưu đày’ cao quý được trọng thần Thôi Hầu đích thân ‘áp giải’, mà trong cái đêm Hoắc Bất Nghi mới tới, hai Tổng đô đốc Tây Bắc đã chạy đến ân cần thăm hỏi, còn hoài niệm về tư thế anh hùng của Hoắc Xung tướng quân năm xưa – dù hai vị này có lẽ chưa gặp Hoắc Xung bao giờ. Lại có một hào tộc bậc nhất địa phương tặng căn biệt viện xa hoa mình mới tu sửa cho Hoắc Bất Nghi làm nơi dừng chân, ngoài ra còn có nương tử Lạc thị danh môn thục nữ luôn tới hầu hạ chăm sóc.

Ban đầu Thôi Hựu rất cảm động, cảm thấy hai vị tướng quân biên cương quả là nhiệt tình, về sau mới biết là Hoàng đế và Tam hoàng tử đã lần lượt gửi thư đến, nhắc nhở có kín đáo có lộ liễu. Nhưng Hoắc Bất Nghi thật sự có lòng tới vùng hoang dã chăn ngựa, khi ấy vết thương trên người chàng vẫn chưa khỏi, Thôi Hựu chỉ biết một khóc hai làm loạn, nói có lỗi với Hoắc phu nhân qua đời, không còn thiết sống nữa, cuối cùng Hoắc Bất Nghi đành thỏa hiệp, ở tại đại trạch thanh tịnh hơi cũ.

Năm thứ hai lưu đày, Ngu Hầu đưa đến biên thành tất tần tật gấm vóc lương thực đồ dùng mà mọi gã trộm cướp khắp trời nam đất bắc phải thèm nhỏ dãi, đương nhiên, ngoài mặt là ông đến ban bố thánh chỉ: Hoàng đế muốn Hoắc Bất Nghi lập công chuộc tội, thăng chức làm Đô lĩnh biên quận.

Mọi người: không cần nói gì hết, bọn ta hiểu cả, bệ hạ ngài không lộ liễu chút nào hết trơn.

Năm thứ ba lưu đày, Nhị phò mã cũng đưa túi lớn túi nhỏ cùng số quân lương đáng kể đến thăm Thôi Hầu (chỉ là ngoài mặt thôi), nhân tiện ban chỉ: để Hoắc Bất Nghi tiếp tục lập công chuộc tội, thăng chức Phó tổng đô đốc hành dinh Tây Bắc, tự chiêu binh lập phủ, thúc quản các bộ tộc Tây Bắc.

Mọi người: lúc nào thì chữ ‘Phó’ này sẽ bị bỏ đi đây, như đã nói, ai mới là ‘trưởng’ đây.

Năm thứ tư lưu đày, …

Mọi người: Mệt quá rồi.

Nhưng lão Vu cảm thấy Hoàng đế là một quân tử phúc hậu chân chính, đất nước trải qua bao lần lầm than, có được một chúa thượng lương thiện như thế quả là có phúc.

Quãng thời gian ở biên giới Tây Bắc vừa trống trải vừa bận rộn, lão Vu tuân lệnh chăm sóc Hoắc Bất Nghi nên có vài chuyện biết rõ hơn người ngoài.

Khi huynh đệ Lương Khưu cãi nhau xem có nên nói cho Lạc nương tử biết về vết thương của Hoắc Bất Nghi hay không, lão Vu đã nghiêm khắc ra lệnh người hầu trong dinh là những nơi quan trọng như thư phòng, phòng ngủ hay phòng nghị sự, dù Lạc nương tử có nhiệt tình đến đâu cũng không được để nàng ta đặt chân vào một bước.

Khi Lý Tư và Trương Thiên cá cược với nhau rốt cuộc Hoắc Bất Nghi có thích Lạc nương tử hay không, lão Vu đã lén bẩm báo cho Thôi Hầu rằng mỗi khi đêm khuya thanh vắng, Hoắc Bất Nghi thường vuốt ve sợi dây đàn quấn trên cổ tay, xin Thôi Hầu nhanh chóng làm mai cho Hoắc Bất Nghi.

Trong lòng lão Vu còn biết, Hoắc Bất Nghi thật sự rất muốn bị phạt nặng, nhưng thiên tử cứ không đồng ý.

Rửa sạch sẽ tay chân, các tướng lĩnh và ba vị học giả lại ngồi xuống, lão Vu vén rèm cửa, sai tùy tùng đem đồ ăn rượu uống vào, hầu hạ mọi người dùng bữa. Cơm nước no nê, lính liên lạc ngoài lều tới bẩm báo, Hoắc Bất Nghi ngoắt tay cho người vào, Lương Khưu Khởi tiến vào, chắp tay thưa: “Thổ Hồn Cáp và Ô Lư Thiện Bố đã đem đến.”

Một học giả có vết thương cũ lâu năm trên mặt lập tức đanh mặt, chắp tay nói: “Hoắc đại nhân, đám người Hồ này có tập tính của hổ báo, bản chất ác độc, chi bằng tận diệt…”

Hoắc Bất Nghi khoát tay ngắt lời: “Ông yên tâm, cứ nghe ta hỏi xong đã… A Khởi, dẫn Thổ Hồn Cáp vào.”

Trong lều lập tức im lặng.

Lương Khưu Khởi dẫn vài binh sĩ áp giải một người bị trói gô đi vào lều, người nọ để râu quai nón và bím tóc lỏng lẻo, máu me bê bết, bị đè dưới đất vẫn la hét thứ tiếng Hán trúc trắc: “… Hoắc Bất Nghi ngươi là đồ Hán gian đáng nguyền rủa, muốn giết cứ giết, đừng có làm nhục ta!”

Hoắc Bất Nghi ngạc nhiên: “Ngươi không bị bắt khi đối đầu với tướng lĩnh quân ta, mà ngươi rơi vào lưới mai phục của Vương lão tướng quân trong lúc bỏ trốn, chẳng phải ngươi đã nhục nhã rồi à.”

Các tướng lĩnh cười phá lên, Thổ Hồn Cáp kìm nén: “Tóm lại các ngươi là gian tặc, các ngươi giết nhiều người trong bộ tộc bọn ta, ta nhất định không bao giờ cam bái hạ phong trước ngươi…”

Nhưng chưa nói xong thì Trương Thiện đã lên tiếng: “Người này biết nói tiếng Hán, cũng nói rất rõ, còn biết cả ‘cam bái hạ phong’.”

Hoắc Bất Nghi cười nói: “Hữu Cốc Lễ vương của chúng ta tuy kệch cỡm, nhưng thực ra là người rất ham học, mấy năm trước hắn đã học tiếng Hán từ nô lệ người Hán ở nơi mình cướp bóc.”

Trong lều vang lên tiếng cười, hai tai của Thổ Hồn Cáp đỏ như tiết canh.

Một học giả trung niên cau mày: “Kẻ này khổ tâm học tiếng Hán, xem ra chí hướng không nhỏ.”

Hoắc Bất Nghi nói: “Giả tiên sinh nói rất hay. Theo như mật thám báo lại, ngay từ khi còn trẻ hắn ta đã yêu thích các món đồ của Trung Nguyên chúng ta, bao gồm đồ sứ, xông hương, thơ lụa, thậm chí thơ ca mỹ nhân… thích không rời tay.”

Thổ Hồn Cáp thẹn quá hóa giận: “Đồ gian tặc Hoắc Bất Nghi nhà ngươi, ngươi đã giết huynh trưởng của ta, ta và ngươi không đội trời chung…”

Hoắc Bất Nghi có vẻ rất ngạc nhiên: “Ồ, không phải ngươi và huynh trưởng Quyền Cừ Đan Vu thường xuyên bất hòa à?”

Thổ Hồn Cáp sững ra.

“Năm năm trước khi phụ thân các ngươi qua đời, hắn kế vị bộ lạc Đan Vu, hắn đã nhiều lần chèn ép ngươi.”

Hoắc Bất Nghi nói câu nào là vạch lỗi câu đấy, Thổ Hồn Cáp tức run người, như bị lột sạch xiêm y, hắn quát to: “Đủ rồi! Ngươi vừa phải thôi! Chuyện trên thảo nguyên thì anh hùng hảo hán trên thảo nguyên bọn ta tự giải quyết, không cần ngươi khích bác ly gián! Giữa ta và huynh trưởng cũng thế, dù thù lớn tới đâu cũng là chuyện của hai bọn ta! Nhưng bây giờ các ngươi cố tình khơi mào chiến tranh, ép bọn ta không có đường lùi, phải hợp binh quyết chiến với các ngươi, đó là thâm cừu đại hận chân chính!”

Hoắc Bất Nghi nhẫn nại giải thích như đang dạy một đứa trẻ: “Người Hán bọn ta là tụ tộc định cư, ngày ngày cày cấy làm lụng, không tranh với đời. Nhưng các ngươi lại khác, chỉ cần có thời cơ là lập tức dẫn đội ngũ cướp bóc, giết người phóng hỏa, chuyện ác nào cũng làm, bọn ta khổ sở khai khẩn biết bao ruộng đất hoang vu, vất vả lắm mới dựng nên chòi xóm, vậy mà cuối cùng lại hóa công cốc. Nhưng làm gì có chuyện ngàn năm đề phòng giặc cướp, bất đắc dĩ nên ta phải dùng kế sách, để bộ lạc không chịu sống yên ổn qua ngày là các ngươi tụ tập lại, sau đó bắt gọn. Nếu ngươi đọc được sách Hán, so với những gì Đan Vu và Cốc Lễ vương nói, ắt biết ta nói thật.”

Trong lòng Thổ Hồn Cáp hiểu chuyện này, hắn ta hừ một tiếng.

Hoắc Bất Nghi nói tiếp: “Ngươi thu nạp nhiều nô lệ người Hán như vậy, tất phải biết tình hình hiện nay ở Trung Nguyên thế nào, ngươi cho rằng các ngươi có thể ngông nghênh giết chóc cướp bóc như trước nữa sao? Ta không ngại nói cho ngươi biết, toàn quân của huynh trưởng ngươi đã chết trong trận chiến hôm nay, đội ngũ thuộc hạ ngươi bị bắt là những người đàn ông duy nhất còn lại trong bộ tộc của các ngươi, ngươi có bao giờ nghĩ sẽ đối mặt với phụ nữ già trẻ đang chờ đợi ở bên kia thảo nguyên như thế nào chưa? Bọn họ tin lời của huynh trưởng ngươi, chờ huynh đệ ngươi cho bọn họ ngày lành tháng tốt.”

Thổ Hồn Cáp ra chiều nuối tiếc, nói nhỏ: “Thực ra ta cũng từng khuyên huynh trưởng và Cam Tà Đan Vu, mấy năm trước còn đỡ, nhưng giờ Trung Nguyên các ngươi dần yên ổn, đương nhiên sẽ rảnh tay để xử lý bọn ta. Mấy trăm năm trước Mạo Đốn Đan Vu hùng mạnh thế nào, thống nhất khắp cõi thảo nguyên, dê bò trải dài tới tận chân trời, dũng sĩ còn nhiều hơn sao, vậy mà vẫn không địch lại Hoàng đế của Trung Nguyên, bị đánh tan tác, cả tới thánh địa truy điệu tổ tiên cũng bị phá hủy, cuối cùng chết trên đường bỏ trốn, bọn ta, bọn ta đành thu tay…”

Hoắc Bất Nghi đứng dậy, chắp hai tay sau lưng đi tới: “Lúc nãy ngươi đã đi qua trùng trùng doanh trướng, có thấy tướng sĩ của ta đào một chiếc hố to ở phía tây không?”

Thổ Hồn Cáp bỗng cảnh giác: “Ngươi, ngươi định làm gì?”

Hoắc Bất Nghi mỉm cười: “Trong sách Hán ngươi từng đọc có nhắc đến một vị tướng quân tên Bạch Khởi không?”

Thổ Hồn Cáp cứng người: “Ngươi, ngươi muốn đào, đào hố chôn sống bọn ta…” Bạch Khởi là ác ma hạ phàm, năm trăm nghìn người nói chôn sống là chôn sống, mà bộ tộc của hắn được bao nhiêu người đây.

Hoắc Bất Nghi nghiêng đầu hỏi Lý Tư: “Tổng cộng hôm qua quân ta bắt sống được bao nhiêu?”

Lý Tư giả vờ tính toán: “Càng về sau càng nhiều kẻ đầu hàng, nhất là khi thấy vương kỳ của Cam Tà Đan Vu gãy, lại càng đầu hàng nhanh hơn… Ừm, nói ít cũng bảy mươi tám mươi nghìn. Tính ra thì thuộc hạ của Hữu Cốc Lễ vương đầu hàng nhiều nhất, chiếm một phần ba trong số đó.”

Vương lão tướng quân bổ sung: “Tính cả thương binh thì chắc sẽ quá một trăm nghìn.”

Trương Thiện nói: “Giữ thương binh lại làm gì, chữa lành rồi để chúng đánh chúng ta à, cứ đẩy xuống hố hết đi.”

Thổ Hồn Cáp run run: “Ta, ta nghe nói Hoàng đế hiện tại của các ngươi nổi tiếng nhân từ, nên mới đánh vài đường ta đã ra lệnh thuộc hạ nhanh chóng đầu hàng, không bắt các nhi lang chống cự. Bằng không, với sự kiêu dũng của binh lính dưới trướng ta, dù trúng mai phục, nếu vẫn liều chết chống cự thì các ngươi đã không dễ bắt sống được ta.”

Vương lão tướng quân trầm ngâm: “Nói hay. Cũng may có thuộc hạ của hắn nên giảm đi rất nhiều thương vong.”

“Muốn cầu xin thì làm cho ra hồn.” Lý Tư lạnh lùng.

Thổ Hồn Cáp do dự khó xử.

Hoắc Bất Nghi nhìn thẳng vào hắn: “… Ngươi lui xuống dưỡng thương đi, ta sẽ mời một vị tiên sinh đọc đủ thi thư đến thuyết giảng rõ ràng, trai gái già trẻ còn lại ở bộ tộc ngươi sống hay chết, tự ngươi quyết định.”

Binh lính đi tới áp giải Thổ Hồn Cáp ra khỏi doanh trướng, huynh đệ Lương Khưu lại áp vào một gã người Hồ bị trói tay sau lưng. Người này thoạt nhìn còn trẻ, khuôn mặt nâu sáng và đôi mắt ánh kim quang cực kỳ cảnh giác.

Vừa thấy Hoắc Bất Nghi, hắn tự động quỳ một chân xuống.

Hoắc Bất Nghi nói: “Ô Lư Thiện Bố, lần trước ta đã nói chuyện quy thuận với ngươi, giờ ngươi nói thế nào?”

Ô Lư Thiện Bố chần chừ: “Ta biết đại nhân có ý tốt, nhưng đàn ông thảo nguyên bọn ta đã quen cưỡi ngựa chăn thả, sống nương trục bèo, bây giờ bảo bọn ta tụ gia định cư, e rằng…”

Hoắc Bất Nghi cười nhạt: “Quen? Hừ, quen để mặc các ngươi đắc chí hả, thiếu hụt cái gì là đến thành trấn của bọn ta đốt phá giết chóc cướp bóc, khiến bách tính của bọn ta bị các ngươi xua đuổi, bắt làm nô lệ như gia súc!”

Ô Lư Thiện Bố nhăn nhó: “Đại nhân nói không sai, nhưng… nhưng tổ phụ của ta là Đại Thiền Vu đời trước, dẫu gì cũng đã qua đời, dù ta có kế thừa đại kỳ của tổ phụ cũng chưa chắc nhất hô bá ứng. Hơn nữa dù ta muốn, rất nhiều trưởng lão và Cốc Lễ vương chưa chắc đã chịu.”

Hoắc Bất Nghi: “Nói ít thôi, bộ lạc các ngươi hợp binh tụ tập nhưng không đồng lòng, có không ít người không muốn đối đầu với triều đình như ngươi, nhưng cũng có những kẻ muốn bảo toàn tinh tực. Nếu các ngươi còn tiếp tục hồ đồ, lần sau tái chiến ta sẽ không nương tay. Theo ta thấy, nếu chết trong tay ta thì chi bằng Tiểu Đan Vu ngươi tự chỉnh đốn bộ tộc, tới lúc ấy Tiểu Đan Vu chẳng những kỷ luật nghiêm minh mà còn có thể được triều đình ban thưởng, ngươi thấy sao.”

Ô Lư Thiện Bố cắn răng: “Được, lần này quay về ta sẽ xử lý những đám không nghe lời kia, nhưng, ngươi phải cho ta mượn đội cung nỏ như lần trước đã hứa, đề phòng ngươi nuốt lời!”

Hoắc Bất Nghi gật đầu, sai người cởi trói cho Ô Lư Thiện Bố rồi dẫn đi.

Một học giả trẻ tuổi quay qua nói: “Có phải người này là cháu trai còn sống của Hốt Nô Đại Đan Vu quá cố không? Ta thường nghe hắn kiêu dũng thiện chiến, dù còn trẻ nhưng cũng rất có uy danh.”

Học giả họ Giả nói: “Đúng vậy. Ta thấy cuộc chiến hôm nay có hơi kỳ, có mấy lần đội ngũ được hắn ta thống lĩnh có thể liều chết xông lên, nhưng cuối cùng lại rút lui nửa chừng. Ta cứ tưởng hắn tham sống sợ chết, nhưng đợi tới khi Lý tướng quân dẫn quân truy đuổi, ta mới thấy thuộc hạ của hắn lại rất khó đối phó…”

Học giả cao tuổi chau mày: “Ta nghe nói sau khi Hốt Nô Đại Đan Vu qua đời, đông đảo bộ tộc của hắn rơi vào rối loạn, người trong tộc đánh nhau ầm ĩ, kết quả bị một bộ tộc Đan Vu khác nhân cơ hội thâu tóm rất nhiều dê bò béo tốt và nhân khẩu của bọn chúng.”

Học giả họ Giả cười nói: “Hoắc đại nhân chọn người hay thật, ban đầu ta thấy khi hắn bị bắt còn rất già mồm, cứ tưởng hắn cứng thế nào, hóa ra là đã có ý định muốn đầu hàng.”

Học giả trẻ tuổi hoài nghi: “Vậy chúng ta phù trợ Thổ Hồn Cáp hay phù trợ Ô Lư Thiện Bố đây?”

Các tướng sĩ cùng học giả họ Giả mỉm cười, Trương Thiện vỗ vào vai học giả trẻ tuổi: “Làm kinh doanh tối kỵ nhất là chỉ có một mối khách hàng, đề phòng người ta ép giá. Phải tìm nhiều mối hơn thì kinh doanh mới dễ.”

Học giả cao tuổi sầm mặt: “Lão hủ thấy người Hồ toàn là hạng vong ân bội nghĩa, chi bằng giết cả!”

Học giả họ Giả thở dài khuyên: “Hầy, ta hiểu tâm sự của lão tiên sinh, những người định cư Tây Bắc như chúng ta có ai chưa từng bị Hồ tộc gieo họa. Mười năm trước, hai huynh đệ trong tộc của vãn sinh đã chết trong tay bọn chúng. Nhưng bệ hạ không muốn binh đao rầm rộ khiến sinh linh lầm than, chúng ta không thể không thông cảm cho nỗi khổ của bệ hạ. Vả lại, bảy tám bộ tộc tham chiến lần này, cùng với rất nhiều bộ tộc khác không tham chiến đang nhìn vào chúng ta. Mấu chốt của thuật ki mi là thực hiện cả ân lẫn uy, kiềm chế các bên, vừa phải để bọn họ biết sợ mà đồng thời cũng cho chút lợi ích.”

Hoắc Bất Nghi cười: “Giả tiên sinh có thể thấu hiểu nỗi khổ của bệ hạ, phải cấp thiết tấu lên bệ hạ để trấn an thánh tâm mới được.”

Có một tia sáng trong mắt học giả họ Giả lóe lên.

Hoắc Bất Nghi nói: “Nếu đã như vậy, lát nữa xin Giả tiên sinh hỗ trợ thuyết giáo Thổ Hồn Cáp, phong hoa tuyết nguyệt đạo đức phép tắc gì đó, chỉ phù trợ một Ô Lư Thiện Bố chưa đủ, tốt nhất Thổ Hồn Cáp cũng nên cúi đầu.”

Học giả họ Giả nhận lệnh.

Trong lều đang cười nói thì bỗng có một người đưa tin đi vào, thì thầm bên tai Hoắc Bất Nghi, Hoắc Bất Nghi lập tức biến sắc, mỉm cười nói: “Đột nhiên có chuyện cấp bách, mời chư vị tướng quân uống thêm vài ly tiếp đãi các tiên sinh, ta cáo lui trước.”

Mọi người đáp ứng, Trương Thiện còn cười nói Hoắc Bất Nghi đi rồi thì bọn họ mới uống tận hứng hơn.

Hoắc Bất Nghi mỉm cười rồi vội vã rời đi, mọi người ở trong lều nhao nhao bàn tán.

“Chúng ta vừa thắng trận, Hoắc tướng quân lại còn có quân vụ nào quan trọng nữa à?”

“Hiện tại thiên hạ đã gần như yên ổn, trong tứ hải còn nơi nào bất ổn, không phải rõ quá sao?”

“Ý ngươi là Công Tôn thị ở Thục? Đừng đoán mò.”

“Tiền tướng quân nói không sai, các ngươi không thấy người đưa tin lúc nãy buộc bên hông ống tre đựng nước người Thục hay dùng hả, ta thấy chắc chắn là chuyện của Thục rồi.”

“Vương lão tướng quân quả là tinh mắt! Từ lâu ta nghe nói Hoắc tướng quân sắp sửa lên đường, từ Lũng vào Thục, hỗ trợ đại quân triều đình giáo công Công Tôn thị, nay xem ra là thật rồi, chẳng trách Hoắc tướng quân không muốn dây dưa quá lâu với tù binh Hồ.”

“Nói thừa! Mấy ngày nay Thôi Hầu bận chỉnh đốn binh lính, thu gom lương thực, số lượng còn nhiều hơn quân ta hôm nay, chứng tỏ có mục đích khác! Trương Thiện ngươi đừng có mãi uống nữa, ngươi nói gì đi!”

“Nói cái gì mà nói! Rượu uống cũng không lấp nổi cái miệng của ngươi, nếu nói sai không phải ta sẽ thành tai mắt không nhạy hả, mà nói đúng lại là ta tiết lộ quân cơ, ngươi muốn hại chết ta phải không!”

“Ha ha ha ha ha, cũng phải, thôi, chúng ta uống rượu đi!”

“Uống, uống! Nhưng, không phải đã chuẩn bị xong cho cuộc chiến đánh Thục rồi à, Hoắc tướng quân nghe được tin gì mà gấp thế…”

“Kể ra đất Thục cũng rất nguy hiểm, mấy hôm trước nghe nói Trần tướng quân thống lĩnh đại quân đã bị tử sĩ của Công Tôn thị ám sát, sau đó bệ hạ đã thay Ông Quân Thúc đại nhân, hầy dà, không biết bây giờ thế nào rồi.”



Trong đại trướng đỉnh vàng khác, Hoắc Bất Nghi sầm mặt nhìn quân báo khoái mã cấp tốc đưa về, nghẹn ngào: “Ông đại nhân cũng bị ám sát? Không phải nói đã đề phòng nghiêm ngặt hả?!”

Người đưa tin này vốn là tâm phúc trong bóng tối của Hoắc Bất Nghi, lúc này xung quanh không có ai, hắn thuật lại đầu đuôi: “Có vết xe của Trần tướng quân phía trước, Ông tướng quân đương nhiên đề phòng rất kỹ, phòng thủ ba tầng trong ba tầng ngoài! Nhưng không biết Công Tôn thị tìm đâu ra một tuyệt thế cao thủ, vô cùng dũng mãnh, có vạn người cũng khó địch, hai tay đánh nứt bia đá, mở ra đường máu, tử sĩ Công Tôn gia đi theo sau hắn nhân lúc sơ hở, dùng cung nỏ buộc trên cánh tay bắn chết Ông đại nhân.”

Hoắc Bất Nghi im lặng rất lâu: “… Xem ra tháng sau ta phải dẫn quân lên đường, vào Lũng trước, sau đó tấn công Thục.”

Chợt người đưa tin lộ vẻ mặt khác thường, Hoắc Bất Nghi trông thấy, hỏi: “Còn chuyện gì thì ngươi nói nhanh lên.”

Người đưa tin chắp tay: “Cũng không phải chuyện lớn, chỉ là… chỉ là trước đó đại nhân từng bảo thuộc hạ thăm dò Viên gia…”

Hắn cảm thấy lúng túng. Mấy năm qua gia chủ bỗng vô cớ bảo hắn điều tra lai lịch của công tử Viên gia từ khi chào đời đến nay xem có gì bất ổn không, cộng thêm tổ tiên tám đời của Viên gia có tập tục hậu viện nào tệ hại không, dù hắn ngu tới đâu cũng đoán được dăm ba phần.

Hoắc Bất Nghi bình thản: “Viên Thận có chuyện gì? Không thể nào, bây giờ Viên Thận vẫn còn ở đô thành, vậy ắt hẳn là phụ thân Viên Châu mục, ông ta làm sao.”

Người đưa tin thầm than trước sự nhạy bén của Hoắc Bất Nghi, bẩm báo: “Viên Châu mục vốn lĩnh mệnh gom góp lương thực ở đông bộ Kinh Châu, cũng hỗ trợ thu xếp thương binh và chuẩn bị quân giới cho đại quân ở tiền tuyến, nhưng trong lúc thuộc hạ đang dò la cao thủ sát hại Ông đại nhân là thần thánh phương nào thì thấy Viên Châu mục dẫn gia tướng và đội cận vệ Viên thị gấp gáp chạy vào Thục, bảo là muốn giúp Ngô đại tướng quân báo thù thay Ông đại nhân.”

Hoắc Bất Nghi gập tay nắm lấy bàn, thâp giọng nói: “Chuyện này, không phù hợp với tính cách cẩn trọng của Viên Châu mục.”

Ngươi đưa tin nói: “Đúng thế! Trước đó đại nhân bảo thuộc hạ thăm dò Viên gia, nên thuộc hạ cũng hiểu được phần nào tính cách của Viên Châu mục, cứ cảm thấy có điểm là lạ. Sau đó, thuộc hạ lại nghe nói mấy ngày nay Viên Châu mục chỉ bận ám sát tử sĩ của Công Tôn gia. Khi thuộc hạ định quay về báo tin thì ám sở ẩn vệ của Công Tôn thị xung quanh Thục đã bị Viên Châu mục dẹp gần hết, ai cũng nói Viên Châu mục đau lòng vì đồng liêu đã chết, muốn trả thù cho Ông đại nhân. Nhưng, nhưng…”

“Nhưng chúng ta đều biết, Viên Châu mục và Ông Quân Thúc không hề có giao tình.” Hoắc Bất Nghi bình tĩnh kết luận, “Viên Châu mục cũng không phải hạng người nóng tính dễ kích động.”

Người đưa tin cúi đầu thừa nhận.

Hoắc Bất Nghi cho người đưa tin lui xuống nghỉ ngơi, một mình đi vòng vòng trong doanh trướng, lúc lâu sau mới gọi lão Vu vào, căn dặn: “Ta không về thành nữa, hiện tại quân tình ở đất Thục rất cấp bách, ta định mấy ngày nay dẫn một đội quân lên đường trước.”

Lão Vu há miệng, toan phản đối thì Hoắc Bất Nghi đã nói: “Ông quay về nói với Thôi thúc phụ, Ông Quân Thúc đại nhân cũng đã bị ám sát, ta đoán bệ hạ sẽ cử Ngô đại tướng quân thay thế, cho nên t phải đi trước một bước, sau đó thúc phụ cứ để Trương Thiện và Lý Tư dẫn người đến tập hợp với ta là được.”

Lão Vu không hiểu việc quân, nhưng lão là tâm phúc của Thôi Hựu, biết chuyện rất quan trọng nên im lặng đáp lời.

Trước khi rời khỏi đại trướng, lão ngoái đầu nhìn lui, thấy vị tướng quân trẻ tuổi đanh mặt, chàng trai khôi ngô như đúc từ băng tuyết phương bắc, chỉ có đôi mắt sáng ngời và ngập tràn sức sống, thể như muốn làm chuyện gì đó rất hăng hái, còn hăng hái hơn cả lúc chuẩn bị cho chuyến chinh phạt các bộ tộc ở thảo nguyên.

Lão Vu rời bước, khẽ thở dài.