Lúc rời Lăng phủ trời hẵng còn sớm, nhưng đang mùa đông giá rét nên không thể đi dạo đó dây, Thiếu Thương đề nghị cả hai tới biệt viện Hạnh Hoa ăn ké bữa trưa.

“A ảo nấu cơm ngon lắm, ban đầu phó mẫu nhà em còn không phục, nhưng lần trước em đem thịt khô do A ảo phơi về, thế là phó mẫu im luôn! A ảo từng nói vốn dĩ bà ấy chỉ quản lý chuyện nhà cửa, về sau cha mẹ chàng hủy hôn, bà ấy mới bắt đầu học nấu ăn để tiện bề chăm sóc Hoắc phu nhân, đúng là thiên phú!”

Lăng Bất Nghi im lặng một lúc, đoạn thấp giọng nói: “Sau khi cha mẹ hủy hôn, có rất nhiều chuyện đã thay đổi.”

Thiếu Thương không nói, có lẽ thay đổi lớn nhất là cuộc sống của Lăng Bất Nghi.

“Mùa đông năm nay lạnh thật, không biết bao giờ mới đỡ đây. Cả nương nương lẫn mẫu thân chàng đều đổ bệnh trong thời gian này, sợ lạnh nên đâm biếng ăn, nhưng đốt nhiều lò than lại sặc khói, ây da sầu chết em rồi! Hầy, chỉ có Tiêu nữ quân nhà em mới oai phong mạnh mẽ tinh thần phơi phới, hai ngày trước mới đánh Tam huynh một trận, trách huynh ấy lấy cớ chăm bệnh Vạn bá phụ mà không chịu đi học. Hừ, Vạn bá phụ đã có huynh trưởng với Nhị huynh, liên quan gì tới Tam huynh, đáng đời! Mẫu thân chưa đốt mai rùa của huynh ấy là may mắn quá rồi!”

Lăng Bất Nghi cười to: “Vết thương của Vạn Thái thú vẫn chưa lành à? Ta tưởng ông ấy sắp về lại quận Từ.”

“Sắp khỏe rồi, nhưng ông ấy muốn chờ phụ thân về gặp một lần.” Thiếu Thương nói, “Thực ra Vạn bá phụ mới là người mượn cớ bị thương để trốn cơ, mẫu thân giận ông ấy lắm, nhưng không thể xông tới Vạn gia đánh ông ấy, nên mới quay sang đánh Tam huynh.”

Lăng Bất Nghi rất thích nghe Thiếu Thương kể chuyện trong nhà, lần nào cũng khiến người nghe cảm nhận được sự ấm áp mềm mại. Chàng dịu dàng nói: “Đợi Vạn Thái thú về quận Từ, nàng mời các huynh trưởng và nương tử Vạn gia đến biệt viện núi Đồ Cao ngâm suối nước nóng đi, thời gian qua gặp chấn động lớn, chắc hẳn ai cũng sợ hãi mệt mỏi, bây giờ đã có thể thư giãn rồi.”

Thiếu Thương gật đầu: “Người khác thì dễ, chỉ là em không biết Thê Thê a tỷ có được đi không nữa. Mấy hôm trước Vạn bá mẫu mới về đô thành, bà ấy là bạn tốt của Doãn phu nhân còn gì, thấy bây giờ Hủ Nga a tỷ học ôn lương hiền thục thì rất để tâm, ngay trong đêm ấy mắng Thê Thê a tỷ một trận, cuối cùng ôm gối ngồi khóc. Bà ấy nói tương lai làm chị em dâu kiểu gì cũng sẽ bị so sánh, Thê Thê a tỷ tính hấp tấp không thục nữ, khéo sẽ bị so tới tận núi Yên Chi mất thôi!… Nhé, nên mấy ngày nay Thê Thê a tỷ đã bị Doãn bá mẫu lôi đi học khóa huấn luyện làm vợ rồi.”

Lăng Bất Nghi mỉm cười: “Em cũng hấp tấp, cũng không thục nữ, còn Dụ Xương quận chúa lại là người nổi tiếng hiền thục khắp đô thành, tới lúc ấy em đâu bị so đến núi Yên Chi, có khi phải đến Nguyệt Thị ấy chứ.”*

(*Núi Yên Chi nằm gần cực bắc Trung Quốc, Nguyệt Thị là tên một nước ở Tây Vực thời Hán.)

Thiếu Thương nổi nóng: “Nếu quận chúa đã tốt như vậy thì vì sao chàng không đi cưới cô ta?!”

Lăng Bất Nghi cười nói: “Vì ta không thích con gái hiền thục. Ta chỉ thích cô gái ăn bậy nói càn, ăn liều làm bậy, ăn như rồng cuốn…”

Thiếu Thương vừa cười vừa xông tới đánh chàng: “Ai ăn như rồng cuốn hả?! Em thấy chàng mới là người ăn có nói không, ăn bóng nói gió, ăn dầm nằm dề… Nói nhanh còn có thành ngữ nào bắt đầu bằng chữ ‘ăn’ không, em cạn ý rồi!”

Hai người quấn nhau ồn ào trong xe, vì trời đang giá rét nên buồng xe khép kín, anh em Lương Khưu thị cưỡi ngựa đi bên ngoài cũng không biết rốt cuộc bên trong có chuyện gì, chỉ thấy thân xe chấn động, trục bánh nghiêng ngả.

Chẳng rõ Lương Khưu Phi nghĩ đến chuyện gì mà chợt đỏ mặt: “Đang ở bên ngoài mà, không phải thiếu chúa công đã… chứ?”

“Không biết.” Lương Khưu Khởi bình tĩnh, “Có lẽ thiếu chúa công và tiểu nữ quân chỉ đùa nhau thôi.”

“Sao huynh trưởng biết?”

“Vì ta có bốn hồng nhan tri kỷ không rời không bỏ, mà đệ thì có thể chọc tức được cô con gái chú gác cổng vốn ngưỡng mộ mình.”

Lương Khưu Phi: …

Đến biệt viện Hạnh Hoa, không ngạc nhiên khi ba cha con Thôi Hầu cũng có mặt.

Lần này Hoắc Quân Hoa bị bệnh không nhẹ, vừa uống thuốc đi ngủ, cũng chỉ những lúc này Lăng Bất Nghi mới có thể nhẹ nhàng ngồi cạnh giường, im lặng nhìn mẹ ruột một hồi.

Hoắc Quân Hoa đã không còn trẻ, dẫu bình thường nói chuyện hay hành xử như một tiểu cô nương tuổi xuân mơn mởn, song dấu vết khổ nạn đau thương của tháng năm và sinh ly tử biệt vẫn in hằn trên mặt bà.

Ai cũng bảo Lăng Bất Nghi giống phụ thân Lăng Ích, nhưng bây giờ Thiếu Thương cảm thấy Lăng Bất Nghi lại giống Hoắc Quân Hoa hơn, hàng mi thanh thoát xéo vào trong tóc mai, sống mũi cao thẳng kiêu hãnh, và nhất là quai hàm trắng ngần cố chấp ấy, y như đúc từ cùng một khuôn.

Vẻ ngoài này rất phù hợp với Lăng Bất Nghi, nhưng với phụ nữ thì dung mạo ấy lại thừa cứng rắn và thiếu đôi phần nữ tính, khiến cái đẹp của Hoắc Quân Hoa luôn mang vẻ độc đoán. Như Việt Phi lại hay hơn, tính cách chuyên quyền đấy nhưng dáng vẻ thanh thoát thướt tha – Thiếu Thương rất hiểu sự lựa chọn của Hoàng đế lão bá.

Lăng Bất Nghi cúi đầu nhìn mẹ ruột một lúc rất lâu, sau đó nhẹ nhàng rời khỏi phòng ngủ, con thứ Thôi gia sốt sắng kéo chàng ra sân trổ tài, Thiếu Thương và Thôi Hầu ngồi dưới hiên nhìn bọn họ.

Thiếu Thương thấy Thôi Hầu cau mày, bèn hỏi thăm: “Lần này Hoắc phu nhân bệnh nặng lắm ạ, cháu nghe A ảo nói đây là bệnh cũ của phu nhân mỗi khi vào đông.”

Thôi Hầu thở dài, “Đúng là bệnh cũ, nhưng nay Quân Hoa đã luống tuổi, không thể chống chọi như hồi trẻ nữa. Ta nghe A ảo nói dịp trước cứ hai ngày ba bữa cháu lại đến thăm Quân Hoa, đứa bé ngoan, vất vả cho cháu rồi. Nhưng cháu thấy đấy, thời điểm Quân Hoa hôn mê nhiều hơn trước, cũng không uống được thuốc. Đại phu nói, nói…”

“Nói thật ra căn cơ của Hoắc phu nhân đã rỗng, mấy năm qua nhờ ăn uống mới cầm cự nổi.” Thiếu Thương nói nhỏ, “Nhưng cháu thực sự không hiểu. Hồi Hoắc Xung tướng quân còn tại thế, Hoắc phu nhân từng sống trong nhung lụa, sau khi đến biệt viện Hạnh Hoa, bệ hạ và nương nương cũng ban thưởng rất nhiều, nào là gân nai nhau báo nhân sâm sơn dã hay thậm chí là tuyết liên, đồ cấp dưỡng cho phu nhân khéo còn tốt hơn cả công chúa vương phi. Nói cách khác, nỗi khổ thật sự của phu nhân là trong hai năm lưu lạc bên ngoài. Nhưng chỉ mới hai năm, vì sao lại thiếu hụt tới mức ấy…”

Thôi Hầu nhớ đến cái khổ mà nữ thần phải chịu, nước mắt suýt rơi: “Lúc ta tìm được mẹ con họ về, Quân Hoa gầy tong teo không ra hình thù, trên đường đi lầm lì không vui, cuối cùng ta phải nói đã giết tên cẩu Lăng Ích thì nàng mới vui lên, mới lại có tinh thần! Thế mới hay cái khổ phải chịu nào tính thời gian dài ngắn, một đao đâm chết người cũng chỉ là chuyện trong khoảnh khắc!”

Thiếu Thương cảm thấy không thể so sánh như thế, nhưng vẫn kìm nén không nói ra.

“Quân Hoa được bá mẫu Hoắc gia sinh non, từ nhỏ nàng ấy đã rất yếu, có khi vì tranh chấp với người ta mà hôn mê ngất xỉu, Hoắc gia tốn bao công sức mới giữ lại được mạng nhỏ của nàng! Về sau vì Lăng tặc mà nàng quyết sinh Tử Thịnh, thấy con trai còm cõi, xém nữa lại bất tỉnh, cũng may tẩu tử Hoắc gia đã cho Tử Thịnh cái tên đáng nhẽ đặt cho con trai mình. Kể ra cũng thật thần kỳ, từ khi Tử Thịnh mang tên nhi lang của Hoắc gia, cơ thể ngày một khỏe mạnh…”

Thiếu Thương mỉm cười: “Thôi thúc phụ thật thiên vị. Đổi cách nói, vì Hoắc phu nhân đau ốm từ nhỏ nên không ai được phép trái ý bà ấy, cũng không được tranh cãi với bà, bằng không bà ấy sẽ hôn mê ngất xỉu… Cuối cùng còn cướp tên để dành của huynh tẩu? Rồi sau đó Hoắc Xung tướng quân thế nào ạ?”

Thôi Hầu nhớ lại chuyện ngày xưa, chợt bật cười: “Tẩu tẩu Hoắc gia có sở thích rất lạ, thích vế đối cân chỉnh, thứ tự tên của ba trai ba gái nhà họ là Bất Tật, Bất Hại, Bất Thức, Bất Tề, Bất Vi, Bất Nghi… Về sau tên Bất Nghi được đặt cho con của Quân Hoa, con út nhà huynh ấy đành gọi là Vô Thương.”

Kể lại chuyện ấy, ông bất giác biện hộ thay nữ thần, “Nữ nương bình thường mà được cưng chiều như vậy, có khi còn rất nóng tính kiêu ngạo, nhưng Quân Hoa chỉ mạnh miệng chứ thực chất rất mềm lòng. Lúc nhỏ nàng ấy thấy ta gầy gộc, tưởng nhà ta nghèo túng cơm không đủ ăn, thế là thường xuyên dùng tay nải nhỏ gói ghém thóc lúa sang đưa cho ta, có gì ăn ngon mặc đẹp cũng không quên giữ phần cho ta. Ôi, bây giờ người ta chỉ nhớ những điểm xấu của nàng, nào ai biết thực ra nàng ấy cũng rất tốt…”

Gặp phải lão Thôi có màng lọc chân ái dày 800 mét, Thiếu Thương thực sự không còn gì để nói.

Muốn ghét thì thiếu gì lý do, ‘không biết lựa lời’ chỉ là nói giảm nói tránh, thực ra ngay từ nhỏ Hoắc Quân Hoa luôn thích bịa chuyện, những khi không vừa ý là lại bịa đặt, không biết Hoắc Xung tướng quân đã phải bồi tội bao nhiêu lần vì thế.

Nhất là về sau khi tranh giành với Việt Phi, Hoắc Quân Hoa nói dối không một trăm cũng tám mươi, lúc nói Việt Hằng huyện bên tuy đẹp nhưng độc ác, thích hành hạ nô bộc, khi lại bảo bà lẳng lơ quyến rũ, chung chạ rất nhiều người, nhưng mãi tới khi mọi người gặp Việt Hằng mới biết không phải như vậy, Hoắc Quân Hoa rõ đang nói dối.

Nguy hiểm nhất là có lần Hoắc Quân Hoa lừa Việt Phi đến nơi từng có lời đồn thổ phỉ qua lại – Thiếu Thương âm thầm ước đoán, có lẽ Hoắc Quân Hoa không muốn đẩy Việt Phi vào chỗ chết thanh bại danh liệt, chỉ là trò chơi khăm ngu xuẩn mà thôi.

Nhưng nếu không nhờ Hoắc Xung cảnh giác, đến cứu viện kịp thời thì hai nhà Hoắc Việt đã trở mặt thành thù.

Con người rất phức tạp, đối với Thôi Hầu, Hoắc Quân Hoa là tiểu tiên nữ độc miệng nhưng tâm tính thiện lương, còn với Việt Phi nương nương thì bà lại là kẻ độc mồm đáng chết. Cũng vì vậy nên Hoàng đế không còn nể mặt muội muội Hoắc gia lớn lên cùng mình nữa, cuối cùng Hoắc Quân Hoa cũng hết hy vọng với Hoàng đế, quay sang để ý thanh niên tuấn tú họ Lăng vừa chuyển tới huyện.

Nghĩ đến đây, Thiếu Thương vội kể cho Thôi Hầu nghe những chuyện quan trọng nghe được ở Lăng phủ hồi sáng.

Thôi Hầu tức giận chửi đổng: “Lão cẩu tặc họ Lăng nên chết đi mới phải! Ngày trước ỷ dịu dàng quân tử dụ dỗ Quân Hoa, nếu xét bản lĩnh thực sự thì còn không xứng xách giày cho bọn ta! Mỗi khi xung phong xung trận là lủi nhanh hơn bất cứ ai, bây giờ còn muốn vùng dậy hả. Thiếu Thương ta nói cháu biết, không chỉ Dụ Xương quận chúa, mà ba anh em Lăng gia nhà họ cực kỳ muốn kết thông gia với tất cả danh môn vọng tộc hoàng thân quốc thích trong đô thành, nhưng lòng người khó đoán, kéo các lão huynh đệ ra mà hỏi thử, nếu không có Hoắc Xung huynh trưởng dìu dắt ông ta thì có ai thèm nhìn ông ta không! Nhưng ôi chao…”

Bỗng ông quay sang cười với Thiếu Thương, gương mặt khỉ cười như quả cà sấy khô, Thiếu Thương run bắn.

“Cháu đừng nghe lời của Lăng lão tặc, nhưng cần khuyên Tử Thịnh thì cứ khuyên, chớ cố liều mạng làm gì.” Thôi Hầu cười tít mắt.

Thiếu Thương không phục la lên: “Vừa rồi ngài còn nói Hầu lão Thành Dương đáng chết mà!”

“Giờ đây không cần ăn bữa hôm lo bữa mai như thuở trước, uy vọng của bệ hạ ngày một đi lên, thiếu gì hào kiệt khắp nơi đến quy thuận, sợ gì thiếu người tài trong triều! Nếu Tử Thịnh gặp chuyện bất trắc, Quân Hoa còn sống nổi không! Chuyện này nhờ cháu nhé, bao giờ cháu xuất giá, cha mẹ cháu cho cháu bao nhiêu hồi môn thì thúc phụ ta cũng sẽ cho cháu một phần y chang! Ngoan nào, nghe lời nhé!”

“Không cần! Hoàng hậu nương nương và Vạn bá phụ cũng hứa như vậy rồi, cháu có đủ hồi môn rồi!” Thiếu Thương rất có khí phách.

“Con bé ngốc này! Chớ có chê hồi môn nhiều! Lúc cần dùng tới tiền mới thấy ít! Đây là tổ huấn bao đời của nhà thúc phụ, luôn đúng tuyệt đối!” Thôi Hầu vỗ đùi mắng, “Nếu cháu có ít của hồi môn, mai sau gặp em dâu là quận chúa lỡ không ngóc đầu lên được thì sao?!”

Thiếu Thương chầm chậm ngoái đầu sang: “Vì sao cháu lại thấy Dụ Xương quận chúa không dám ngẩng đầu nhỉ?”

Thôi Hầu nhanh nhảu: “Người ta tinh thông đủ cầm kỳ thi họa nữ công gia chánh, cũng nổi tiếng hiền lương thục đức ở đô thành. Còn cháu? Nghe A ảo nói, vá chỗ rách trên xiêm y còn xiên xẹo nữa là!”

Thiếu Thương tức đến nỗi cơ thể run bắn, đứng bật người dậy: “Thôi Hầu, Thôi thúc phụ, nể ngài lớn tuổi cũng có đức nên cháu không cãi nhau với ngài. Nhưng duyên phận giữa hai ta đến đây chấm dứt, xin tạm biệt từ đây, trời cao đất xa, không cần đưa tiễn!” Nói đoạn, nàng chắp tay rồi tức giận quay gót rời đi.

Lúc này Thôi Hầu mới biết mình đã chọc giận tiểu cô nương, la oai oái đuổi theo níu người.

..

Vì sợ Hoắc Quân Hoa tỉnh dậy mà thấy Lăng Bất Nghi thì lại phát bệnh, nên sau khi ăn trưa nghỉ ngơi một lúc, Thiếu Thương và Lăng Bất Nghi lên đường trở về, cha con Thôi gia tính ở lại biệt viện Hạnh Hoa thêm hai hôm.

Từ nơi xa ngoái nhìn cửa biệt viện, không biết Thôi Nhị đang đùa gì với cha anh, Thôi Hầu lập tức kéo con trai tung lên không rồi cùng con trưởng cười to tiếp đỡ.

Lăng Bất Nghi vui vẻ nhìn, buột miệng nói: “Hồi ta còn nhỏ, phụ thân cũng thường thích tung ta lên rồi đỡ lấy như thế.”

Thiếu Thương cũng nhìn cha con Thôi Hầu, thở dài nói: “Thôi thúc phụ nặng tình thật, hầy, chàng nói xem, ông ấy và mẫu thân chàng lớn lên bên nhau từ nhỏ, không biết bắt đầu thích mẫu thân chàng từ lúc nào nhỉ.”

Lăng Bất Nghi cười lắc đầu: “Có lẽ tự đến thời điểm thì biết.”

Thiếu Thương ngoẹo đầu nghĩ ngợi: “Tam huynh nhà em cũng từng hỏi Ban Tiểu Hầu là làm thế nào để biết mình thích một cô gái. Ban Tiểu Hầu bảo cụ cố từng nói với hắn rằng, khi gặp cô gái mình thích sẽ cảm thấy sấm đánh chớp giật – lúc chàng thấy em có phải cũng có sấm đánh chớp giật không?”

Lăng Bất Nghi cẩn thận suy ngẫm, nghiêm túc trả lời: “Đêm đó là hội đèn đúng không. Ta không cảm thấy sấm đánh chớp giật, ta chỉ cảm thấy ở nơi em đứng, mọi thứ xung quanh ngập sắc xuân ấm áp, hoa cỏ nở rộ.”

Lòng Thiếu Thương ngọt ngào, mắt cười nhoẻn cong.

Lăng Bất Nghi nói: “Rốt cuộc em và Thôi thúc phụ đã nói gì vậy, vừa nãy thấy ông ấy cứ chặn đường em nói ngon nói ngọt, trong bữa ăn còn chia cho em cả tảng thịt lớn.”

Thiếu Thương cứng người, xòe hai tay bé nhỏ ra vờ như không có việc gì: “Cũng có gì đâu. Chỉ là dạo này Thôi thúc phụ thấy em càng lúc càng hiền lương thục đức, trong lòng mừng rơn nên mới tán thưởng em ấy mà!”

Hu hu hu, người duy nhất trên đời này có thể tán thưởng nàng chỉ có Hoàng hậu nương nương thôi! Đám đàn ông thối tha của xã hội phong kiến này đúng là thiển cận, óc thẩm mỹ thối nát lạc hậu!



Lại mấy ngày trôi qua, cuối cùng cha Trình cũng theo Hàn đại tướng quân khải hoàn quay về.

Nếu bảo ai bực bội nhất trong cuộc chiến diệt phản Thọ Xuân lần này thì ắt hẳn là đại quân của bọn họ, từ đầu chí cuối chỉ bắt được khoảng mười tàn binh tàn tướng, rồi còn vì Thôi bảo mẫu sợ các bạn nhỏ gặp bất trắc nên không hề có ý định tiến công mạnh mẽ.

Đàu tiên là Lăng Bất Nghi tiến công như gió táp mưa sa dọa phe cánh của Bành nghịch tặc, sau đó Thôi bảo mẫu dùng tổ hợp quyền ‘khuyên hàng – ly gián’ mưa gió lâm râm, cuối cùng Bành Chân bị tâm phúc của mình bó thành bánh chưng vứt ra khỏi thành đầu hàng.

Hoàng đế rất chu đáo, dù cha Trình và Hàn đại tướng quân tay không quay về, song không có công lao cũng có khổ lao, vẫn ban thưởng mỗi người ít vàng bạc, có điều quan trật không xê dịch.

Nhưng vở kịch lớn ở ngay nhà.

Cha Trình chưa tháo giáp đã chạy thẳng đến Vạn phủ, sau đó đồng chí lão Vạn như đứa trẻ ấm ức nhiều ngày cuối cùng cũng được gặp phụ huynh, ôm chầm nghĩa đệ khóc tới nỗi phế ruột phế gan, khóc như sinh ly tử biệt đứt từng khúc ruột, luôn miệng ‘ta cho rằng sẽ không gặp được hiền đệ nữa thật sự sống không bằng chết hu hu hu hu hu hu’…

Tiêu phu nhân khoanh tay lạnh lùng nhìn, Vạn phu nhân lúng túng, trừ Trình Vịnh đang ở Thái Học viện chưa về, cánh tiểu bối còn lại khoái chí hóng hớt – tình hình như thế, nếu không phải cha Trình và Tiêu phu nhân nghĩa nặng tình sâu, Vạn lão bá lại thích chơi trăng hoa hệ nam nữ thì Thiếu Thương cũng rất muốn nghĩ lệch lạc đó.

Trình Ương đã cao lên nhiều, ngày càng trầm tĩnh dịu dàng, từ sau khi Vạn Tùng Bách bị vạch tội, nàng thường xuyên đến Vạn gia chăm sóc lão phu nhân, bây giờ lại lăng xăng lui tới giúp Vạn phu nhân đang không khỏe, sự so sánh với Vạn Thê Thê càng thêm một cấp. Và thế là, lấy lời khen Trình Ương làm mở đầu, Tiêu phu nhân cùng Vạn phu nhân bắt đầu nói chuyện nhà.

Tiêu phu nhân đã chuẩn bị hôn sự cho Trình Ương, chỉ đợi mấy tháng sau Trình Nhị thúc đang ở núi Bạch Lộc xin nghỉ về nhà thương thảo nữa là xong. Thực ra cuộc hôn nhân này cực kỳ tốt, Tiêu phu nhân cũng hao tâm tổn trí biết bao, nếu không so sánh với Lăng Bất Nghi thì có thể nói là Trình Ương với cao. Nhưng bởi có sự tồn tại chói lóa như Lăng Bất Nghi nên lang tế khắp đô thành bỗng kém hẳn đi.

Vạn phu nhân lại nghĩ thoáng hơn, dù gì mười hai cậu con rể của bà cộng lại cũng không bì được Lăng Bất Nghi, nên tâm nguyện bây giờ của bà là chỉ cần con gái Thê Thê được hạnh phúc.

Khóc đủ thời gian một bữa cơm ăn, Vạn Tùng Bách mới lau nước mắt nước mũi dính trên bộ râu, sau đó xua mọi người lui ra, chỉ giữ nghĩa đệ thân thiết ở lại nói chuyện. Tiêu phu nhân đã mất kiên nhẫn từ lâu, giũ mạnh tay áo rồi đi thẳng ra ngoài cửa, Vạn phu nhân cười khổ đuổi theo.

Đợi khi mọi người đi hết, Vạn Tùng Bách mới nói: “Phen này thập tử nhất sinh, bao lần gặp hiểm nguy, kể ra vẫn nhờ giai tế của hiền đệ mới thoát được cảnh thăng thiên! Ôi, suýt chết mấy lần mới nhìn rõ mọi sự, hiền đệ à, hôm nay ta muốn nói với đệ về hôn sự của Thê Thê và Tử Phù, cả chuyện kéo dài hương khói cho nhà ta nữa.”

Trình Thủy hiểu rõ, thở dài đáp: “Ta cũng nghĩ đến chuyện này từ lâu, hai nhà chúng ta có giao tình vượt mệnh, giờ xem ra huynh trưởng không thể sinh con trai được rồi…”

“Ta không sinh được con trai còn chẳng phải do tối kiến chết tiệt của đệ hả, bảo ta trùng tu mộ phần tổ tiên, kết quả phá hỏng phong thủy…”

“Cho dù không sửa mộ phần không hỏng phong thủy đi nữa, nghĩa huynh cũng chỉ được hai năm một cô con gái, không biết con trai đang ở nơi nào!”

“Có con gái vẫn tốt hơn không có con! Kể từ khi Thê Thê chào đời, đã mười mấy năm ngu huynh ta không có thu hoạch, giờ ngoài kia ai cũng bóng gió nói ngu huynh có bệnh tật!”

“Nói lung tung! Kẻ nào dám bôi nhọ nghĩa huynh, ta sẽ xé xác bọn chúng!”

“Dù đệ có nướng sống họ thì cũng không ngăn được họ nghi ngờ!”

“Bây giờ làm thế nào đây?” Trình Thủy bất đắc dĩ ngồi xuống.

“Còn có thể thế nào được nữa.” Vạn Tùng Bách tựa vào túi dựa, “Ngu huynh ta không có con trai, đành cậy vào cháu trai thôi.”

Hai mắt Trình Thủy sáng lên: “Ta cũng từng nghĩ đến chuyện này, mấy năm trước ta còn nói với Nguyên Y là ‘xem ra huynh trưởng không có con nối dõi rồi’… Huynh trưởng đừng ngắt lời để ta nói hết đã! Tử Phù lớn lên dưới cái nhìn của huynh, cũng có tình cảm rất tốt với Thê Thê, sau này hai đứa thành thân thì để con mang họ của huynh cũng được, hay bảo Tử Phù ở rể cũng được…”

Vạn Tùng Bách cảm động, vỗ vai nghĩa đệ thở dài: “Hiền đệ không phải máu mủ với ta nhưng còn hơn cả máu mủ, có thể nói ra lời thật lòng như vậy. Ở rể à, ta cũng từng nghĩ đến, nhưng thứ nhất sợ hai vợ chồng đệ đau lòng, thứ hai ta cũng đau lòng lắm! Tử Phù là đứa trẻ tốt thẳng thắn cởi mở, tuy ta thưởng bảo xem thằng bé như con ruột, nhưng bắt ở rể lại quá khó nghe! Mai sau nó bị người bên ngoài chế giễu thì phải làm sao, khác gì xẻo thịt của chúng ta! Trằn trọc suy nghĩ mãi, ta và mẫu thân đã bàn bạc xong, nếu bảo tương lai nhận cháu ngoại kế thừa, chi bằng nhận Tử Phù làm con thừa tự!”

Trình Thủy trật nhịp: “Nhận Tử Phù làm con thừa tự? Nhưng hai nhà chúng ta có máu mủ gì đâu!” Không phải nhận con thừa tự là chọn trẻ từ trong tông tộc sao.

“Ai bảo không được!” Vạn Tùng Bách hí hửng ngồi dậy, “Đệ nhìn Sầm An Tri bên cạnh bệ hạ đi, cũng nhận nuôi cháu của bạn làm con thừa tự…”

Trình Thủy bó tay: “Thứ nhất, Sầm nội quan là hoạn quan, sao nghĩa huynh lại đi so với y. Thứ hai, thân tộc người nhà của Sầm nội quan đã thất lạc trong chiến loạn, số còn lại cũng mặc áo tang. Thứ ba… Thứ ba tạm thời ta chưa nghĩ ra, tóm lại chuyện này không ổn, nghĩa huynh sẽ bị người ta chỉ trỏ nghị luận đấy!”

“Chỉ trỏ cái gì!” Vạn Tùng Bách hừ lạnh, “Đệ cũng biết tộc nhân nhà ta thế nào rồi đấy, từ lâu đã như nước với lửa. Nhận con thừa tự?! Hừ, ta dám nhận đấy, nhưng bọn họ có dám đưa con tới không! Hơn nữa, ta đã nói nhận Tử Phù làm con thừa tự thì tức đã có nắm chắc, những năm qua ta đã bắt được thóp của kha khá lão già trong tộc, đến lúc đó chèn ép bên này lôi kéo bên kia, tìm hương lão đức cao vọng trọng thuyết phục là chắc chắn chuyện sẽ thành!”

Ông vỗ đùi cái đét: “Ta đã cho người về quê âm thầm thuyết phục rồi. Nói tóm lại bọn họ khiến ta hài lòng, ta sẽ xóa bỏ ân oán ngày trước, về sau sẽ chia cho chút đỉnh lợi lộc!”

Trình Thủy cẩn thận suy ngẫm, hình như… có vẻ… không phải không thể.

“Gượm gượm! Nếu Tử Phù làm con trai huynh, vậy tức là huynh muội với Thê Thê còn gì! Chuyện chuyện chuyện này…” Cha Trình cuống lên.

“La to thế làm gì!” Vạn Tùng Bách đủng đỉnh nói, “Đón Thê Thê đi là xong! Ta cũng đã chọn nhà rồi, chính là nhà anh trai vợ ta. Cữu phụ cữu mẫu của Thê Thê không có con gái, cho nên rất yêu thương Thê Thê, chuyện này bọn họ cầu còn không được!”

Trình Thủy chóng mặt, không bắt kịp nhịp: “Tẩu phu nhân có đồng ý không? Thê Thê là khúc thịt của tẩu ấy mà!”

Vạn Tùng Bách cười mắng: “Ta thấy đệ mệt quá nên ngu ra rồi! Nếu mẫu thân Thê Thê không đồng ý thì ta có thể đưa Thê Thê đến nhà anh vợ được hả? Tẩu tẩu của đệ đâu chỉ đồng ý, mà từ khi ta nói với bà ấy chuyện này, bà ấy vui tới nỗi mất ngủ kia kìa!”

Dừng một lúc, ông lại thở dài nói: “Hầy, cũng do vợ chồng hiền đệ rộng lượng quá, nói thật lòng với lương tâm, để nha đầu như Thê Thê làm dâu nhà ta ta còn không ưng! Lỗ mãng kích động lại kiêu ngạo tùy hứng, chẳng hề có dáng vẻ của hiền thê!”

“Huynh trưởng chớ coi nhẹ mình, Niệu Niệu cũng có khác mấy đâu, ba ngày hai bữa lại cãi nhau với ta, câu nào câu nấy khiến người ta tức chết…” Trình Thủy nói.

Vạn Tùng Bách khoát tay ngăn ông: “Không giống, không hề giống! Niệu Niệu là người có tính toán, cung đình là chốn nào, con bé ba hoa là nơi đó thành thế ngoại đào viên hả được hả? Dù có Hoàng hậu và Lăng Bất Nghi quan tâm, nhưng nếu con bé không biết phân lượng, không biết tiến thoái thì rất khó đứng vững! Thê Thê lại không như vậy, con bé thật sự bộc tuệch vô tâm không biết tính toán, lần này hay rồi, có thể ‘cưới’ nó về nhà, tẩu tẩu đệ hận không thể móc tim gan ra làm quà cám ơn hai vợ chồng đệ đấy!”

Trình Thủy rối bời: “Nghĩa huynh chậm chậm đã, để ta và Nguyên Y bàn bạc…”

“Đệ đấy! Không có khí phách đại trượng phu chút nào!” Vạn Tùng Bách hận rèn không thành thép, “Chuyện này gia chủ đồng ý là xong, cần gì phụ nữ xen vào!”

Mắng xong, ông nhanh chóng bật cười: “Ấy ấy, mà đệ cũng đừng ngại nói với Tiêu thị, dù ta không đánh giặc bày trận bằng đệ, nhưng ta rất biết tích góp gia tài, chỉ cần nàng ta đồng ý thì tài sản của Vạn gia sẽ là của Tử Phù tất! Về sau ở bên ngoài ra sao ta không quan tâm, cũng không so đo Tử Phù về nhà vẫn gọi hai người là phụ thân mẫu thân ta, ha ha, há há há há!”

Trình Thủy nhìn nghĩa huynh cười sung sướng, trong lòng cảm động, thấp giọng nói: “Huynh trưởng, ta biết huynh có ý tốt, dụng ý chân thành, nhưng huynh kỹ nghĩ đi, tên bắn ra không thể quay đầu! Nếu đón Tử Phù làm con nuôi thật, lỡ mai sau huynh trưởng sinh được con trai thì làm thế nào? Còn nữa, nếu sau này Thê Thê cũng không sinh được con trai thì sao? Lẽ nào bảo Tử Phù nạp thiếp, nhưng như vậy con sinh ra cũng không có quan hệ máu mủ với Vạn gia!”

Vạn Tùng Bách ngưng cười, trong mắt có ánh nước, bình tĩnh nhìn Trình Thủy, nhả từng chữ một: “Hiền đệ à, ta không may mắn như đệ, từ nhỏ đã không có duyên với máu mủ huyết thống. Năm xưa tận mắt ta thấy các thúc bá ép mẫu thân khoét mắt cắt tai để tỏ lòng, máu chảy xối xả! Ngày còn bé bọn họ còn từng rắp tâm mưu đồ với ta. Những năm qua bọn họ càng hận mẹ con ta không thể chết sớm ở bên ngoài, hòng chờ chực chiếm đoạt gia sản nhà ta! Ta không động đến tế điền và sản nghiệp tổ tiên, nhưng gia sản của gia phụ gia mẫu và chính tay ta kiếm được không phải thứ để bọn họ cuỗm lấy!”

“Hôm ấy bị sơn tặc tấn công trong rừng, dù ta bị thương rất nặng nhưng Tử Phù vẫn cõng ta trên lưng. Thân hình ta mập mạp, đè thằng bé còn đứng không nổi, nhưng thằng bé vẫn không chịu để lại ta mà chạy thoát thân. Lúc ấy ta đã nghĩ, dù là con ruột của ta đi nữa, đại nạn ập đến cũng chỉ như thế là cùng!”

“Đệ đừng nói với Tiêu thị chuyện này, nàng ta dạy các con rất nên người, hữu dũng hữu mưu, tâm tình tốt bụng. Có đứa trẻ hiếu thảo như Tử Phù làm con trai ấy là ta có phúc. Nhưng như vậy cũng tức là cướp đi một người con ngoan của hiền đệ, trong lòng ngu huynh rất bất an!”

Mắt Trình Thủy ngấn lệ, siết chặt hai tay nghĩa huynh: “Huynh trưởng nói gì vậy, nếu không có nghĩa huynh dốc sức giúp đỡ, chỉ bằng vào mấy người vợ chồng đệ khéo có khi đã bỏ mạng trong chiến loạn từ lâu! Năm ấy sơn tặc Trần Bàn muốn sống mái với ta, địch nhiều ta ít, toàn quân sắp tan tác. Chính huynh trưởng đã dốc gia sản cho ta chặn quân địch, là ân tình lớn nhường nào…”

“Nói nhảm gì đấy hả! Cái tên họ Trần mái vỡ từ tám đời hoành mà đệ cứ nhai đi nhai lại, muốn chứng minh mình có trí nhớ tốt phải không! Chính vì đệ dài dòng như thế nên lần nào cũng bị Tiêu thị đè đầu…”

Hai huynh đệ cảm động nhìn nhau bật cười, Vạn Tùng Bách đang định khuyên nghĩa đệ đôi câu đạo trị vợ thì bỗng nghe thấy bên ngoài ồn ào, sau đó Trình Vịnh hớt hải chạy vào thưa:

“Mẫu thân! Xảy ra chuyện lớn rồi! Nghịch tặc Bành Chân ở trong ngục bỗng tự thú, nói hắn và Kiền An vương cấu kết với nhau từ lâu, cùng mưu đại sự! Hai ngàn cân đồng tinh luyện ở huyện Đồng Ngưu chính là lễ ra mắt hắn dâng lên Kiền An vương!”

Ngoài phòng khách chợt im bặt, một giọng nam biếng nhác vang lên: “Chuyện này liên quan gì tới chúng ta, huynh trưởng ngồi xuống đi đã, nghỉ ngơi uống hớp nước nào.”

“Thiếu Cung câm miệng! Vịnh nhi nói tiếp đi, có phải đã liên lụy đến nhà họ Vương đúng không!” Tiêu phu nhân nói.

“Mẫu thân đoán không sai!” Trình Vịnh thở hổn hển, “Nghịch tặc ấy còn nói, nếu nhiều năm trước Xa Kỵ tướng quân Vương Thuần không dẫn đường cho hắn thì hắn cũng không biết tới phe cánh Kiền An. Sau khi hắn dấy binh làm phản, cũng là Vương Thuần đưa tin bảo hắn đến liên kết với Kiền An vương phủ…”

“Nói miệng không có bằng chứng! Lẽ nào Bành Chân nói cái gì thì là cái ấy! Nghịch tặc sắp chết nên định kéo người chịu tội chung, cũng không lạ!” Trình Tụng phát biểu.

“Nhị huynh đừng chen lời, huynh trưởng thất thố như thế, chứng tỏ Bành Chân không chỉ nói miệng cắn bừa!” Trình Thiếu Cung nói.

“Đúng! Bành Chân có để lại manh mối. Hắn tính nhờ Vương Thuần cầu xin bệ hạ giúp mình, nhưng thấy Vương Thuần không đếm xỉa đến mình nên bất chấp hết, lấy ra thư tay của Vương Thuần!”

“… Huynh trưởng, huynh nói một hơi thôi.” Giọng Thiếu Thương lanh lảnh, vừa bình tĩnh lại từ tốn, “E rằng không chỉ đơn giản là liên lụy tới Vương gia. Có phải còn liên lụy đến Đông cung không?”

Trình Vịnh thở dài: “Trong đó có vài thư hàm viết: tốt nhất là dụ bệ hạ ngự giá thân chinh rồi kế đến giở trò từ trong. Chỉ cần bệ hạ chết thì Thái tử có thể kế vị, tới lúc ấy thiên hạ sẽ thuộc về hai nhà Vương Bành.”