Sáng sớm, Đức Vinh cầm chén canh đi ra ngoài, nhưng vừa ra đến cửa phủ đã thấy Triêu Thiên rầu rĩ đứng trước xe ngựa, bèn hỏi: “Sao thế Thiên nhi?”

Triêu Thiên đáp: “Ta mất đao rồi.”

Đức Vinh nhìn xuống hông hắn, quả nhiên không thấy bội đao đâu, “Đao đâu rồi?”

Triêu Thiên đau lòng kể, “Lão gia trồng một phiến trúc tương phi ở sân sau, không hiểu sao tự dưng bị gãy một cây, lão gia bảo công tử tìm hiểu, công tử chẳng thèm điều tra đã sai ta đi nhận lỗi với lão gia, nói ta mới nhận được đao nên cao hứng, lỡ tay chém gãy một cây. Lão gia nghe xong, không nói không rằng đã ném thanh đao của ta xuống giếng cạn sau sân.”

Đức Vinh trợn mắt: “Hôm qua công tử giữ ngươi lại thư phòng là nói chuyện này?”

Triêu Thiên gật đầu.

Đức Vinh thấy hắn xứng đáng bị như vậy lắm, nhưng ngoài miệng vẫn an ủi: “Thôi đừng buồn nữa, ngươi còn không hiểu công tử à? Chưa bao giờ tệ bạc với ngươi, ít hôm nữa là  ngươi sẽ có đao mới thôi.”

Dù nói thế, nhưng cầm đao lâu ngày cũng có tình cảm chứ, hắn thực sự đau lòng lắm.

Dạo gần đây có mấy con mèo hoang mò tới ngoài ngõ, trời đã vào Đông nên chúng không tìm được thức ăn, tội nghiệp làm sao. Thế là từ sau khi Đức Vinh biết chuyện, sớm tối nào cũng đem một chén canh ra đút cho chúng. Hắn đặt chén canh ngay trước cửa phủ, chỉ chốc lát sau, mèo hoang đã tìm đến. Đức Vinh nhìn chúng ăn xong, xoa đầu một chú mèo mun rồi thu chén về, nhỏ nhẹ bảo: “Đi đi.”

Đang đi trong phủ, hắn chợt thấy Giang Từ Chu bước đến từ Đông viện.

Đức Vinh biết sáng nay chủ tử sẽ đến Kinh Triệu Phủ. Lại nhìn Thanh Duy đội mũ che mặt, mặc áo lông đi cạnh Giang Từ Chu, Đức Vinh coi như chưa thấy gì. Kể từ khi thành thân đến nay, dù đi đâu chủ tử cũng dẫn theo thiếu phu nhân, thiếu phu nhân cũng luôn đồng hành với chủ tử, hai người dính lấy nhau như thể một khắc cũng không rời. Đức Vinh chà xát tay, đi tới nói với Giang Từ Chu: “Bẩm công tử, đã chuẩn bị bình nước nóng cho thiếu phu nhân rồi ạ, đặt sẵn ở trong xe.”

Giang Từ Chu ừ một tiếng, “Đi thôi.”

***

Kinh Triệu Phủ nằm ở thành tây, cách Giang phủ hơn nửa kinh thành, lúc tới sở quan cũng đã gần giờ Thìn, Thanh Duy xuống xe, từ xa trông thấy Kinh Triệu Phủ doãn tiễn một thư sinh mặc lan sam đi ra từ nha môn.

Nhìn bóng lưng thư sinh ấy nom quen mắt.

Tới khi y xoay đầu nhìn qua, gương mặt dịu dàng như sương trên núi xa, Thanh Duy ngạc nhiên, y chính là người nàng đã đỡ trong hội thơ tối qua đây mà.

Lần đầu gặp là vào ban đêm, nay nhìn mới thấy trông y không giống thư sinh chút nào, không có nét ngây ngô của thư sinh, đứng song song với Tề phủ doãn của Kinh Triệu Phủ, hành vi cử chỉ rất chững chạc.

Tề phủ doãn và thư sinh cũng nhìn thấy Giang Từ Chu, hai người cùng vái chào: “Ngu hầu.”

Giang Từ Chu trả lễ, đoạn hỏi thư sinh: “Trương Nhị công tử đến Kinh Triệu Phủ là vì vụ án Ninh Châu à?”

Hóa ra người này là Trương Viễn Tụ.

Trương Viễn Tụ đáp: “Đúng thế, nhân chứng đã viết một bản khai khác, hạ quan bèn đem tới cho Tề đại nhân xem.”

Hồi ở Ninh Châu, Trương Viễn Tu giữ chức Tiết độ Thôi quan* địa phương, giờ kết thúc thời gian thí thủ sớm để hồi kinh, triều đình chưa kịp thu xếp công việc cho y nên hiện nay y không có chức vụ trong người, đi theo lão thái phó đến Hàn lâm sửa sách, vì vậy người trong triều gặp y cũng gọi một tiếng Trương Nhị công tử.

(*Tiết độ Thôi quan là quan viên trợ lí của thuộc hạ các châu quận về mặt quân lương.)

Giang Từ Chu hỏi: “Đã thu xếp chỗ ở cho hai vị đại nhân theo Trương Nhị công tử hồi kinh chưa?”

Trương Viễn Tụ đáp là đã xong xuôi rồi, “Vốn chủ bộ là người trong kinh, thành thử cũng có nhà ở.”

Giang Từ Chu gật đầu, nhưng vừa bước chân vào sở quan thì Trương Viễn Tụ gọi lại: “Ngu hầu.”

Y đứng dưới những tia nắng trong lành ngày Đông ở trước cửa nha môn, nhìn lướt qua Thanh Duy, “Hạ quan hồi kinh là quyết định vội vã, về đến nơi mới hay tin lệnh phu nhân đổ bệnh, quà biếu chuẩn bị gấp gáp nên không được đầy đủ, mong ngài chớ trách.”

Giang Từ Chu nói: “Trương Nhị công tử khách khí quá.”

***

Giang Từ Chu dẫn Thanh Duy tới công đường ngồi chờ, Tề phủ doãn tiễn Trương Viễn Tụ ra về rồi nhanh chóng quay vào. Dạo gần đây Kinh Triệu Phủ có lắm chuyện phức tạp, Tề phủ doãn cũng tất bật bận rộn, chỉ mới chốc lát thế thôi mà trên trán đã rịn một lớp mồ hôi mỏng, hắn vén bào dẫn Giang Từ Chu vào trong, “Hôm nay Ngu hầu đến cũng là vì bản án Ninh Châu phải không?”

Giang Từ Chu đáp phải, “Ta đã hẹn gặp Tiểu Hà đại nhân ở đây.”

“Tiểu Hà đại nhân đã đến từ nãy giờ rồi ạ.” Tề phủ doãn nói, “Hạ quan đã bảo Cảnh Thái, chính là Cao Tử Du tiếp đón ở sảnh bên. Hắn là Thông phán, đi lại trong nha môn cũng dễ hơn. Bản án Ninh Châu lại liên quan đến mệnh quan phủ quan hồi trước nên cũng không chắc là do Kinh Triệu Phủ thẩm tra. Hôm đó Trương Nhị công tử đưa đơn kiện đến nha môn, hạ quan cũng bảo Cao Thông phán ra mặt nhận. Chẳng phải Ngu hầu đã tìm được một nhân chứng ở thao trường Dương Pha sao, nếu muốn biết gì thì có thể hỏi Cao Thông phán, tới lúc đó sắp xếp lại bằng chứng hai bên rồi báo cáo chung lên triều đình một thể.”

Giang Từ Chu bảo: “Tề đại nhân nói chí phải, nhưng Huyền Ưng Ti là nơi nhạy cảm, ta muốn tìm Tiểu Hà đại nhân hỏi chuyện, để đề phòng nghi kị, đành phải mượn tạm chỗ của quý bảo địa.”

Tề phủ doãn vội chắp tay: “Ngu hầu khách khí quá.”

Sảnh bên mở rộng hai cửa, Cao Tử Du đang ngồi trong tiếp chuyện với Hà Hồng Vân, tối qua hắn mới bị Khúc Mậu đấm cho mấy cú, mặt vẫn sưng vù bầm tím, vừa thấy Giang Từ Chu, nghĩ tới việc y là anh rể của Chi Vân thì lại đâm lúng túng.

Giang Từ Chu muốn nói chuyện riêng với Hà Hồng Vân, Cao Tử Du không tiện ở lại thêm, bèn bảo: “Hạ quan xin phép ra ngoài trước, Ngu hầu muốn hỏi gì về bản án này thì cứ cho người đến gọi hạ quan.”

Cao Tử Du vừa rời đi, Hà Hồng Vân đặt cốc trà xuống, bước lên chào hỏi: “Tử Lăng, lâu lắm rồi mới gặp lại.”

Bộ thường phục tím nhạt trên người hắn làm bật lên nét thanh tú trên mặt, mấy ngày không gặp, tùy tùng đi theo đã đổi sang một người mày ngắn mặt vuông, Thanh Duy biết kẻ này, hắn tên là Thiện Liên, nàng đã từng giao thủ với hắn, là người có công phu giỏi nhất trong số tùy tùng của Hà Hồng Vân.

Hà Hồng Vân nói với Giang Từ Chu: “Bây giờ ta đã không còn để bụng lần xung đột ở Chúc Ninh Trang đợt trước nữa rồi, nhưng cứ lo đệ sẽ có hiềm khích với ta, trong lòng hối hận không thôi! Huyền Ưng Ti muốn điều tra, xét cho cùng cũng là việc công, nhẽ ra ta không nên hành động cảm tính mà ngăn cản đệ. Đêm qua nhận được tin nhắn của đệ, ta mừng lắm, suốt đêm không chợp mắt nổi, vậy mà sáng ra vẫn rất có tinh thần.”

Giang Từ Chu nói: “Niệm Tích quá lời rồi, công là công mà tư là tư, huống hồ sau đó Huyền Ưng Ti cũng chẳng điều tra được gì, nếu muốn luận rõ ai đúng ai sai thì ta mới là người cần nhận lỗi với huynh.”

Hai người khách khí xã giao, nhìn cũng hòa thuận gớm, như thể Hà Hồng Vân không hề giăng bẫy nhốt Thanh Duy vào thủy lao và Giang Từ Chu cũng chẳng đến thao trường Dương Pha cướp con tin.

Hà Hồng Vân lo lắng hỏi: “Nghe nói đợt trước đệ muội bị bệnh, giờ nàng ấy đã khỏe chưa?”

“Khỏe hơn nhiều rồi.” Giang Từ Chu nói, “Quay lại chuyện chính, hôm nay ta hẹn Niệm Tích đến đây là vì có chuyện quan trọng muốn nói.”

Hà Hồng Vân làm tư thế “mời”, vén vạt áo ngồi xuống ghế bên trái, “Tử Lăng mau nói đi.”

Giang Từ Chu nói: “Hôm trước ta cứu được con tin ở thao trường Dương Pha, Niệm Tích đã biết chưa?”

Hà Hồng Vân gật đầu.

“Năm năm trước, vụ án ôn dịch ở Ninh Châu là do Niệm Tích xử lý. Trong bản án này có một thương nhân tên Lâm Khấu Xuân, vì hắn ta tích trữ thuốc nên mới chậm trễ việc dập dịch, cuối cùng đã sợ tội tự thiêu.

Năm ấy trong kinh thành có mấy hộ buôn dược phẩm bán lại Dạ Giao Đằng cho Lâm Khấu Xuân, con tin mà ta tìm được là một trong số ấy. Nhưng chuyện này không quan trọng, quan trọng là, con tin đó đã khai với ta rằng, trong tay hắn có một quyển sổ ghi lại số bạc xuất kho dùng để mua thuốc tàng trữ.”

Hà Hồng Vân dừng động tác uống trà: “Tử Lăng tìm được sổ sách?”

Giang Từ Chu nói: “Án ôn dịch đã là bản án cũ từ mấy năm trước, vốn dĩ chỉ là một quyển sổ, ta cũng chẳng bận tâm. Nhưng hôm trước mới biết sự việc không ổn, rõ ràng quyển sổ ấy là của Lâm Khấu Xuân, thế nhưng chữ ký xác nhận bạc xuất kho lại là của Lưu Xương. Người trong kinh ai mà chẳng biết Lưu Xương là người của Niệm Tích, chưa hết, bên cạnh chữ ký của Lưu Xương còn có tư ấn của Hà gia.”

Nói tới đây, Giang Từ Chu bỗng hạ giọng: “Niệm Tích, huynh nói thật với ta đi, rốt cuộc chuyện này là thế nào?”

Hà Hồng Vân cụp mắt không đáp.

Giang Từ Chu bèn nói thêm: “Chẳng lẽ số bạc dùng để thu mua Dạ Giao Đằng ngày trước là do huynh chi? Để ta tính nhanh thử, muốn tích trữ số Dạ Giao Đằng ấy thì chí ít cũng cần đến 200 nghìn lượng, một khoản tiền khổng lồ như thế, dù tới thương nhân giàu có như Lâm Khấu Xuân cũng khó lòng chi ra, vì sao Niệm Tích huynh lại có được?”

Hà Hồng Vân im lặng rất lâu, đoạn hỏi Giang Từ Chu: “Vậy vụ án này, Tử Lăng định làm sao đây?”

“Vì chẳng biết làm sao nên mới hỏi Niệm Tích.” Giang Từ Chu nói, “Ta tin vào nhân phẩm của Niệm Tích, cho dù hiện tại vụ án này đang nhằm vào huynh, nhưng ta tin huynh tuyệt đối không làm chuyện đó. Thực tình ta muốn tạm thời giấu nhẹm vụ án này đi, đợi điều tra kỹ rồi lại tính tiếp. Nhưng Trương Viễn Tụ đã hồi kinh, còn dẫn theo lang quan bộ Hộ bị oan năm đấy, cấp báo lên triều đình. Kiểu gì cũng sắp phúc thẩm bản án ôn dịch, ta sốt ruột quá nên mới phá luật, gọi Niệm Tích đến hỏi trước.”

Hà Hồng Vân đặt cốc trà xuống: “Tử Lăng đệ quả là… tốt với ta như thế, bảo sau này ta phải báo đáp thế nào đây!”

Hắn đứng bật dậy, chắp tay ra sau lưng, bước đi mấy bước như hạ quyết tâm rất lớn, sau đó thở dài bảo, “Chuyện đã đến nước này thì ta cũng không giấu giếm Tử Lăng nữa, ta nói thật! Chuyện tích trữ thuốc hồi ấy đúng là ta đã vẽ đường cho Lâm Khấu Xuân. Khi đó ta mới làm quan, tuổi trẻ xốc nổi, nghe tin có ôn dịch tàn phá Ninh Châu nên đã bày mưu để Lâm Khấu Xuân tích trữ thuốc, thứ nhất là do ta muốn thăng quan, thứ hai cũng muốn làm gì đó vì nước vì dân. Ta vét sạch của cải cũng chỉ góp được chừng 50 nghìn lượng bạc, giao cả cho Lâm Khấu Xuân. Ta nghĩ ở Ninh Châu đang khan hiếm Dạ Giao Đằng, bèn bảo Lâm Khấu Xuân mau chóng thu mua để chuyển tới Ninh Châu, về sau triều đình giao chuyện này lại cho Hạ Lang trung ở bộ Hộ, ta tưởng Lâm Khấu Xuân sẽ bàn giao việc này lại cho Hạ Lang trung, vì vậy cũng không để ý thêm. Ai dè tên Lâm Khấu Xuân này, tiền vừa vào túi, không những không giao Dạ Giao Đằng cho Hạ Lang trung mà còn đầu cơ bán đắt. Khi biết chuyện ta đã hối hận không thôi, cảm thấy mình đã tin nhầm người, nên lúc đó mới xin triều đình được xử lý vụ án này, tránh mất bò mới lo làm chuồng.

Ta nói thật Tử Lăng à, vì giải quyết vụ án này mà hồi ấy ta chẳng có lấy một ngày ngủ ngon, mấy chục nghìn lượng đã bỏ ra, đến một đồng ta cũng không muốn lấy lại, chính vì trong lòng rất xấu hổ! Ta cảm thấy, dù kẻ tích trữ thuốc là Lâm Khấu Xuân, dù hắn cấu kết với Trâu gia kiếm lời, nhưng nguyên nhân gây ra vụ việc vẫn là ta. Vụ án này là gút mắc trong lòng ta bao nhiêu năm qua, chẳng ngờ lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, giờ đã bị phanh phui rồi. Mà thế cũng hay, chân tướng rõ ràng thì ta cũng được giải thoát. Nếu đã vậy, Tử Lăng à, đệ mau trình bằng chứng mình tìm được lên triều đình đi.”