Thượng thư bộ Hình hỏi: “Ý của Trương đại nhân là… bảo triều đình thừa nhận việc mắc nợ dân chúng Cật Bắc vì đã lựa chọn chống lại man địch, dù về sau có bú đắp song nằm ngoài tầm tay triều đình, quan phủ địa phương cũng không quản lý thấu đáo, nên mới khiến vài nạn dân Cật Bắc không được bố trí thỏa đáng. Nhưng triều đình chỉ có lỗi với Cật Bắc chứ không có lỗi với nhân sĩ sông Thương Lãng, bọn họ nhảy sông là bởi không muốn xương cốt quốc gia bị gãy, muốn Đại Chu bình an lâu dài; sau đó lấy việc các sĩ tử như Trương Chính Thanh chi tiêu tiết kiệm tiếp tế Cật Bắc làm tấm gương sáng. Ngày xưa triều đình xây dựng Tiển Khâm Đài chỉ là để tưởng niệm tấm lòng son của các sĩ binh tướng, nhưng bây giờ khi triều đình tái thiết Tiển Khâm Đài là bởi hối hận trước sự lựa chọn hi sinh Cật Bắc, vì thế mới càng phải để nhân sĩ Tiển Khâm Đài trở thành khuôn mẫu, phải xây đài cao và lập bia đá vì họ?”

“Ý của Trương đại nhân rất hay!” Vị đại nhân họ Từ lúc nãy tiếp lời, “Có câu không ai hoàn hảo, triều đình cũng không có khả năng chu toàn mọi việc, nhưng triều đình cũng đã sớm nhận ra quyết sách ngày ấy không đúng với Cật Bắc, cho nên việc xây lại Tiển Khâm Đài, chính là quyết định đưa ra khi triều đình biết được nhân sĩ tiếp tế Cật Bắc! Hai chữ ‘Tiển Khâm’ vẫn không hề lấm bẩn. Miễn là giải thích theo hướng này, thì kể từ sau triều đại Gia Ninh, các quyết định do triều đình đưa ra chưa từng sai, chỉ cần cúi đầu, mọi người sẽ lần nữa nhìn lại những rắc rối xung quanh, Tiển Khâm Đài hôm nay được xây vì những nhân sĩ nhảy sông và con cháu họ. Cơn giận của bách tính sẽ lắng xuống, Tiển Khâm càng trở nên cao quý hơn bao giờ hết, mối nguy hôm nay cũng sẽ được giải trừ!”

Trương Viễn Tụ chắp tay bái: “Quan gia, thần tự nguyện làm sứ giả, ra cửa cung nói chuyện với nhân sĩ bách tính.”

Mà cũng không ai thích hợp hơn y cả.

Y là con trai của sĩ đại phu Trương Ngộ Sơ, là em ruột của sĩ tử lên đài Trương Chính Thanh, lão thái phó còn là ân sư, là cha nuôi của y, và bây giờ tin tức y sắp cưới Nhân Dục quận chúa đã truyền khắp kinh thành, ai ai cũng kháo rằng y đúng là Tạ Trinh thứ hai.

Nhưng Triệu Sơ còn chưa lên tiếng, trên điện vang lên giọng nói trong trẻo: “Không ổn!”

Thanh Duy nhìn Trương Viễn Tụ: “Đây chính là mục đích của Trương Nhị công tử từ trước tới nay? Để nhân sĩ tụ tập trước cửa cung, đưa ra một câu trả lời mà công tử muốn bọn họ biết, cuối cùng để Tiển Khâm Đài trở thành tòa tháp tưởng niệm nhân sĩ Tiển Khâm và sĩ tử lên đài, vĩnh lập thế gian?”

Đoạn, nàng bái lạy Triệu Sơ: “Bẩm Quan gia, dân nữ cho rằng những điều Trương Nhị công tử nói không ổn, biện pháp này thoạt nhìn có vẻ sẽ giải quyết được vấn đề trước mắt, nhưng thực chất chỉ là tránh nặng tìm nhẹ, chí í… chí ít chúng ta vẫn chưa biết được nguyên nhân thật sự của việc Tiển Khâm Đài sập, lẽ nào chỉ vì mỗi Hà Hồng Vân tráo nguyên vật liệu? Khúc Bất Duy nói danh sách lên đài là do Chương Hạc Thư đưa, vậy Chương Hạc Thư có được danh sách đó từ đâu? Nếu là Hàn Lâm Viện, thì vì sao Hàn Lâm Viện lại phân chia phần danh sách đó? Chúng ta vẫn chưa biết rõ về nguyên nhân kết quả, vậy ra ngoài kia giải thích với mọi người là giải thích cái gì? Giải thích cái chân tướng chúng ta muốn họ thấy sao? Mong Quan gia chưa quên, vì lí do gì mà vụ án Hà thị tráo gỗ, Khúc Bất Duy mua bán suất lên đài lại bị đào lên, chính bởi vì chân tướng bị chôn vùi dưới lớp bụi! Biện pháp của Trương Nhị công tử là muốn dùng hai chữ Tiển Khâm trấn an nhân sĩ, trải đường lui cho triều đình, song y lại quên một điều, đó chính là chân tướng sự thật. Để y ra đàm phán, ắt hẳn có thể xoa dịu cơn giận của dân chúng, đám đông tụ tập tất sẽ giải tán, nhưng dân nữ biết, nếu vào lúc này, nếu dân nữ cũng đứng ngoài cửa cung, nghe được những lời giải thích ấy, dân nữ tuyệt đối không cam lòng!”

Trên điện có người hừ khẽ, ý rằng một đứa con gái dân đen tầm thường như Thanh Duy chỉ biết nói lời sáo rỗng, không biết cân nhắc thiệt hơn, chẳng qua ngại Tạ Dung Dữ nên mới không nói thành lời.

Triệu Sơ hỏi: “Nghe giọng Ôn thị, có phải biết được gì rồi không?”

Thanh Duy suy nghĩ, chắp tay lạy sâu hơn, “Bẩm Quan gia, dân nữ muốn đối chất với Trương Nhị công tử. Nhưng dân nữ không hiểu phép tắc, có lẽ sẽ có vài lời bất kính, mong Quan gia tin rằng dân nữ tuyệt không có ý xúc phạm.”

“Cứ nói.”

Thanh Duy gật đầu, xoay người nhìn Trương Viễn Tụ: “Trương Nhị công tử, anh cho rằng vì sao tiên đế phải xây dựng Tiển Khâm Đài? Là để tưởng niệm các sĩ tử đã nhảy sông?”

Không đợi Trương Viễn Tụ trả lời, nàng nói luôn: “Không cần anh nói, chúng tôi cũng biết câu trả lời. Năm Hàm Hòa thứ mười bảy, sĩ tử gieo mình xuống sông đã khiến tiên đế lúc bấy giờ là thái tử chấn động, lập chí chấn hưng Đại Chu, sau khi đăng quang miệt mài vì việc nước việc dân, lập được công lớn, chỉ vỏn vẹn mười năm đã đưa Đại Chu thoát khỏi cảnh loạn thế. Tiên đế cũng là người, ngài ấy đắc chí với sự phồn thịnh do mình tạo nên, nhưng ngài không thể công khai lập bia cho mình, vậy phải làm gì? Ngài ấy nghĩ đến việc xây dựng Tiển Khâm Đài, cho nên tòa tháp ấy không chỉ tưởng nhớ sĩ tử gieo mình xuống sông hay tướng sĩ hi sinh trong chiến dịch Trường Độ, mà còn để kỉ niệm chiến công của tiên đế, kỷ niệm chính ông – đệ nhất đế vương từ ngày Đại Chu khai quốc đến nay!”

“Tôi xin hỏi Trương Nhị công tử, anh muốn Tiển Khâm Đài là cái gì?”

“Tiển Khâm Đài mà công tử muốn…” Thanh Duy nhìn Trương Viễn Tụ, giọng thấm lạnh, “Là một tòa tháp không liên quan đến tiên đế, tách biệt khỏi hoàng quyền, chỉ là tấm bia tưởng niệm sĩ tử nhảy sông. Nói cách khác, công tử muốn nó tưởng nhớ cha anh mình.”

“Xây lại Tiển Khâm Đài cũng không hẳn là mục đích của công tử, xây lại một tòa tháp để tưởng nhớ sĩ tử mới là mục đích của anh. Anh không muốn trăm năm sau, có người nhìn vào tòa tháp ấy mà nghĩ ngay đến tiên đế, anh muốn điều đầu tiên thế nhân nghĩ đến là sự hi sinh cao cả của các sĩ tử nhảy sông, thậm chí là tên của từng người một!

Nhưng một mình đi đến bước ấy thực sự quá khó, cho nên anh buộc phải hợp tác với Tào Côn Đức.

Thật ra tôi vẫn cảm thấy lạ, mong muốn của anh là xây Tiển Khâm Đài, còn Tào Côn Đức, ông ta cực kỳ căm ghét tòa tháp ấy, vì ông ta cho rằng chính sĩ tử nhảy sông đã đẩy người dân Cật Bắc vào cảnh lầm than, rõ ràng mục đích của hai người hoàn toàn trái ngược nhau, vì sao lại hợp tác với nhau? Nhưng giờ tôi đã biết rồi, mục đích của Tào Côn Đức vừa khéo cho anh một cơ hội, chỉ cần để dân chúng biết rõ về khổ nạn của người dân Cật Bắc thì có thể khiến triều đình phải cúi đầu, chỉ cần triều đình thừa nhận đã không thu xếp thỏa đáng cho người dân Cật Bắc, là có thể xóa bỏ được chiến công của tiên đế ra khỏi Tiển Khâm Đài. Anh nói ‘triều đình có lỗi, còn nhân sĩ Tiển Khâm trong sạch’, ‘Tiển Khâm Đài hôm nay chỉ xây vì các sĩ tử nhảy sông năm xưa’, không phải những điều đó đều tiến hành theo kế hoạch của anh sao?

Vừa rồi anh còn nói, sau khi hồi kinh, anh nhận lệnh điều tra nguyên nhân sĩ tử gây rối, nhờ đó mới tra được Viên Tứ kích động sĩ tử, có thật vậy không?

Không! Anh sớm đã biết Viên Tứ, thậm chí cũng biết Tào Côn Đức, Đôn Tử muốn làm gì, nhưng điều bọn họ làm vừa hay cũng là điều anh muốn, nên anh mới không ngăn cản họ. Anh nói lục soát được thừ tư qua lại của Viên Tứ và Đôn Tử, nhưng có cần lục soát thật không? Tào Côn Đức nuôi chim cắt, chim cắt sẽ gửi thư ra ngoài cung giúp ông ta, nhưng Tào Côn Đức sống ở thâm cung nhiều năm, làm sao chim cắt của ông ta biết được đường đi lối về ở Đại Chu, không phải nhờ có anh hỗ trợ nuôi nó ở ngoài cung sao? Với anh mà nói, việc lấy những bức thư ấy quá dễ dàng, chẳng qua anh vẫn giấu đi không công khai, đợi đến thời điểm thích hợp!

Trong vụ án của Hà Hồng Vân, anh đưa người dân Ninh Châu lên kinh, ép triều đình phải xây lại Tiển Khâm Đài. Trong vụ án của Khúc Bất Duy, anh biết nếu tiết lộ nội tình vụ án tất sẽ khiến mọi người căm phẫn, cho nên anh mặc kệ Tào Côn Đức toan tính sắp đặt, thậm chí còn đồng ý cưới Nhân Dục quận chúa, trở thành Tạ Trinh thứ hai trong lòng nhân sĩ. Tất cả những gì anh làm chỉ vì ngày hôm nay, và hôm nay khi giới nhân sĩ tụ tập trước cửa cung, với Tào Côn Đức mà nói, đây là cơ hội để vạch trần nỗi khổ Cật Bắc, còn với anh, nó là cơ hội để xóa tên tiên đế ra khỏi Tiển Khâm Đài, để hai chữ ‘Tiển Khâm’ hoàn toàn sạch sẽ!”

Lời của Thanh Duy như đá rơi xuống đất, đập thẳng vào lòng rất nhiều người. Nhưng Trương Viễn Tụ lại chỉ cười, nụ cười của y vẫn dịu dàng như thế, song khóe môi nhoẻn cong lại ẩn chứa sự mỉa mai.

Có lẽ y không quan tâm người ngoài đã nhìn ra được gì.

“Ôn cô nương nói không sai, đúng là ta đã sớm biết kế hoạch của Tào Côn Đức.”

Trương Viễn Tụ bình thản nhìn mọi người, “Nhưng thế thì sao? Bây giờ sĩ tử bách tính đang tụ tập trước cửa cung, muốn giải quyết rắc rối, chẳng lẽ còn có cách nào khác ngoài việc để Tiển Khâm sạch sẽ?”

“Còn về việc triều đình muốn trị thần tội bất kính với tiên đế, thông đồng với hoạn quan, thì đợi chuyện hôm nay kết thúc, thần cam tâm chịu phạt.”

“Hơn nữa,” Trương Viễn Tụ hỏi, “Dù ta muốn tái thiết Tiển Khâm Đài chỉ để tưởng niệm sĩ tử nhảy sông, thì có gì sai sao?”

“Để hai chữ Tiển Khâm càng trong sạch thuần khiết, thì có gì sai sao?”

“Không điều tra toàn bộ sự thật, chỉ để mọi người biết được một nửa sự thật mà ngươi muốn bọn họ biết còn không phải là sai?” Đúng lúc này, một âm thanh đanh sắt vang khắp đại điện.

Tạ Dung Dữ từ từ bước tới, dừng lại bên cạnh Trương Viễn Tụ, “Dung túng người làm điều ác, cố ý xúi giục nhân sĩ còn không phải là sai?”

“Ngươi nói muốn xây lại một Tiển Khâm Đài chỉ để tưởng nhớ nhân sĩ, muốn để hai chữ Tiển Khâm không lấm bẩn, nhưng ngươi đã quên bản thân Tiển Khâm mang hàm nghĩa gì, đó là tấm lòng cao cả của các sĩ tử nhảy sông, còn ngươi lại đánh mất lòng chân thành ấy, như thế còn không phải là sai?”

“Nếu có thể lấy lòng thành của ta đổi lại một Tiển Khâm Đài thuần khiết thì có hề gì?” Trương Viễn Tụ nói, “Nếu Chiêu vương điện hạ đã nói vậy, tại hạ cũng có chuyện muốn thỉnh giáo điện hạ.”

“Mười tám năm trước, chúng ta mất đi sinh phụ, hai chữ Tiển Khâm gán lên chúng ta cả đời. Nhưng từ khi Tiển Khâm Đài sập, điện hạ một mực truy tìm chân tướng, tại hạ muốn hỏi, rốt cuộc chân tướng là gì? Là bông tuyết, là phiến băng vụn, hay là hư vô khi nước bốc hơi?”

“Điện hạ còn chưa rõ ư? Tiên đế xây đài cao là để kỷ niệm chiến công của mình; Chương Hạc Thư phân chia danh sách là để thực hiện lí tưởng hàn vi và thế gia ngang hàng; Khúc Bất Duy mua bán danh sách là để trải đường cho con trai mình; thậm chí còn nhiều người hơn, như thương nhân muốn nở mày nở mặt hay người họa sĩ muốn đoàn tụ với con gái. Đối với bọn họ, Tiển Khâm chỉ là hư ảo, trong mắt họ chỉ có mây xanh! Còn chân tướng mà điện hạ tìm kiếm không gì khác ngoài mây xanh, thứ ta muốn làm là xóa bỏ những đám mây cao vời vợi đó ra khỏi Tiển Khâm, chỉ có như thế, Tiển Khâm Đài mới là Tiển Khâm Đài!”

Tạ Dung Dữ nói: “Trương đại nhân nói đúng, thời gian qua, bổn vương cũng chỉ toàn thấy những người xem Tiển Khâm là nấc thang lên trời. Nhưng bổn vương cũng muốn hỏi Trương đại nhân vài câu, tòa tháp ngươi muốn tái thiết là cái gì? Ngươi muốn để Tiển Khâm quay về trong tim bách tính, rốt cuộc Tiển Khâm là cái gì? Là ‘sông Thương Lãng gột sạch cổ tà’ không vết bẩn, hay là tên họ của cha anh ngươi? Là ngươi không cách nào chấp nhận bọn họ ra đi đột ngột! Ngươi chỉ trích những người ngoài kia biến Tiển Khâm Đài thành Thanh Vân Đài, nhưng không phải ngươi cũng muốn nó trở thành bia đá để cha anh ngươi trường tồn hậu thế sao? Trong mắt Trương Vong Trần ngươi, Tiển Khâm Đài có thật sự chỉ là Tiển Khâm Đài không?”

Từng câu từng chữ chất vấn rót vào tai, con tim Trương Viễn Tụ bị hẫng một nhịp.

Bất giác y nhớ lại ngày hôm ấy ở núi mỏ Chi Khê, Chương Đình bê bết máu me nhìn y, hỏi từng chữ một: “Vong Trần, trong mắt huynh, Tiển Khâm Đài, là như thế nào?”

Không phải cũng là Thanh Vân Đài sao?

Hàn khí dâng lên qua lớp áo, Trương Viễn Tụ đưa mắt nhìn, gió tuyết bên ngoài đã thổi mạnh hơn, xuyên qua khe cửa rơi vào đại điện, cơn lạnh ấy khiến y tỉnh táo lại, phất tay cười nhạt, “Chiêu vương điện hạ nói dễ nghe nhỉ, nhưng ngài tìm kiếm chân tướng không biết mệt mỏi là vì cái gì? Tên là Dung Dữ nhưng chẳng thể tiêu dao, không phải người hoàng cung nhưng lại được phong vương mà lớn, phải đeo mặt nạ mới được sống như là chính mình, nay tháo mặt nạ khoác lên phân vị vương, lại lần nữa bó tay bó chân, ngài không hận ư? Dù Tiển Khâm Đài có dựng hay sập, ta vẫn tình nguyện đi vào vòng xoáy ấy, còn ngài không có ngày nào không muốn rời xa. Ngài nói ta muốn xây lại Tiển Khâm Đài là vì cha anh, điều này ta thừa nhận, nhưng ngài dốc sức điều tra chân tướng, còn không phải vì để mở khóa gông cùm ấy sao, chỉ khi sự thật hé lộ thì ngài mới có thể được giải thoát, hai ta kẻ tám lạng người nửa cân, ai mà chẳng có động cơ.”

“Không sai, đúng là ngày trước ta rất hận, cũng cho rằng chỉ cần tra rõ chân tướng thì sẽ được giải thoát.” Tạ Dung Dữ nói, “Nếu nói có gì khác biệt, thì đó chính là ta đã gặp được rất nhiều người cũng giống mình. Ngươi cho rằng việc Tiển Khâm Đài sập chỉ ảnh hưởng đến mỗi sĩ tử lên đài? Không, còn có rất nhiều người chưa từng gặp, thậm chí chưa từng nghe nói đến, một Huyện lệnh ở vùng núi hoang vu, nàng thiếp thất mãi nghệ kiếm ăn, cô kĩ nữ vất vả lên kinh, sơn tặc ở trong núi, họa sĩ mai danh ẩn tích, Tiển Khâm Đài sập hay nước sông Thương Lãng đều để lại trong lòng những người đó vết thương không thể xóa nhòa, bọn họ cũng như ta, đang chờ đợi một chân tướng, chỉ có sự thật mới có thể giải thoát bọn họ, những người đó, nghìn lần vạn lần, không cho phép ngươi giải thích một cách sơ sài!”

“Còn bách tính là gì, ba người thành hộ, mười hộ thành thôn, trăm thôn thành trấn, ba trấn thành huyện, nếu một sự cố ảnh hưởng đến mấy nghìn người, thì kể cả quá khứ lẫn hiện tại, nó đã ảnh hưởng đến hàng vạn người! Mà sợ rằng đó không phải chỉ là một sự cố, mà là vết sẹo trong lòng dân chúng, vết sẹo kết từ ba đời Hàm Hòa, Chiêu Hóa, Gia Ninh, ngươi nói thư sinh và dân chúng ngoài cung hiểu biết không nhiều, ngươi có thể dùng lời để thuyết phục, nhưng bọn họ không phải bách tính sao? Không phải dân chúng sao? Hôm nay ngươi dùng luận điệu này để bác bỏ họ, vậy ngày sau ngươi lấy gì để khiến người trong thiên hạ tin phục?!”

“Ngươi hỏi ta chân tướng là gì đúng không?” Nói đoạn, Tạ Dung Dữ cất bước đi tới cửa điện, kéo mở cửa ra, gió tuyết theo đó lập tức ùa vào, quét qua mặt y, y chìa tay nắm lấy, xoay người lại, “Ngươi nói chỗ tuyết này nhìn xa là tuyết, nhìn gần là băng, rơi xuống đất sẽ tan biến, vậy thì phải để bọn họ thấy quá trình vì sao tuyết trở thành băng, băng tan thành nước và nước bốc hơi như thế nào, đấy mới là sự thật, thay vì nói tuyết là tuyết và băng là băng! Vì sao Tiển Khâm Đài thành Thanh Vân Đài, triều đình đã chọn lựa giữa chủ chiến và chủ hòa như thế nào, sau khi chọn lựa đã phạm sai lầm ở đâu, đưa ra lương sách nào, ai có công ai có lỗi, ai phạm tội đại ác, ai bị xử oan, kể cả huynh trưởng ngươi đã làm gì, Không cần dùng lời hoa mỹ, cũng không cần giải thích thừa thãi, thậm chí danh sách Tiển Khâm Đài từ đâu ra, vì sao Hàn Lâm Viện lại đưa danh sách cho Chương Hạc Thư, phải phô bày rõ ràng đầu đuôi trước mắt mọi người mới đúng!”

“Không phải chỉ xây đài cao không lấm bẩn thì Tiển Khâm Đài mới có ý nghĩa, mà tìm ra sự thật thì tự nó ắt có ý nghĩa.” Tạ Dung Dữ nói, “Ta cũng không biết sự thật là gì, tuy nhiên, chỉ khi hiểu được băng tan thành nước như thế nào, chúng ta mới có thể biết cách giữ được băng. Có thể ngươi nói đúng, suy cho cùng Tiển Khâm cũng chỉ là một đám mây xanh hư ảo, nhưng chí ít chúng ta có thể biết đâu là đúng, đâu là sai, hoặc khi đúng sai lẫn lộn, chúng ta biết phải đi hướng nào. Cố gắng che đậy vết thương đang rỉ máu chỉ khiến nó thêm mưng mủ thối rữa, nứt toác nhiều hơn. Muốn chữa lành thì phải mổ xẻ ra, dù có phải kết thành sẹo gớm ghiếc.”

“Quan, Quan gia.” Nghe những lời Tạ Dung Dữ vừa nói, mọi người trong điện chấn động đến nỗi không thốt nổi nên lời, một lúc lâu sau, Đường chủ sự ở bộ Hình mới chắp tay bẩm Triệu Sơ, “Thần cho rằng Chiêu vương điện hạ nói đúng, vụ án mua bán danh sách Tiển Khâm Đài vẫn chưa tra rõ nội tình, nếu bây giờ đi giải thích với sĩ nhân ở ngoài cung thì quá chiếu lệ, nếu sau này có người khui ra chân tướng sâu hơn, thí dụ như… vì sao danh ngạch của Tiển Khâm Đài lại rơi vào tay Chương Hạc Thư, như thế sẽ càng khiến bách tính mất lòng tin vào triều đình.”

“Ngược lại thần cho rằng, tuy lời Chiêu vương điện hạ nghe có lý, song lại nghĩ đơn giản quá rồi. Chưa nói muốn điều tra tất cả trong một ngày khó khăn như thế nào, mà dù có điều tra được thì do ai ra mặt giải thích đây, làm sao lời của người đó có thể khiến dân chúng tin tưởng? Rồi giải thích xong, làm sao chắc chắn sĩ tử ngoài cung sẽ tản đi, hay càng làm loạn hơn?” Vị đại nhân họ Từ nói, “Hơn nữa, dù những lời Trương đại nhân nói không phải là toàn bộ sự thật, nhưng tuyệt đối không phải chiếu lệ, chí ít đó cũng là một phần sự thật, với những người tụ tập ngoài cung mà nói thì cách giải thích ấy đã đủ, từ từ rồi chuyện cũng tròn, đầu tiên giải quyết việc cấp bách, sau đó thẩm vấn Chương Hạc Thư hay thậm chí là Hàn Lâm Viện, đợi điều tra xong toàn bộ, xem xét tình hình mà chiêu cáo thiên hạ, như vậy chẳng phải tốt hơn sao?”

Đúng lúc này, một Cấm vệ quân hớt hải chạy vào tâu, “Bẩm Quan gia, mạt tướng đã tìm được Đôn Tử, nhưng Đôn Tử công công đã… đã chết.”

Thanh Duy cảm thấy không đúng, nhất thời quên đi phép tắc, “Đôn Tử chết rồi? Chết thế nào?”

Cấm vệ quân giải thích, “Nhân sĩ bách tính bạo động, trong kinh có kẻ lợi dụng cơ hội gây án, quân lính chỉ có thể giữ trật tự ở ngoài chứ không tiến vào được bên trong, Đôn Tử công công… hình như gặp phải kẻ xấu, tiền bạc bị cướp sạch, quần áo xộc xệch, trên người trúng hai đao, tắc thở chết trong tuyết, còn về huyết thư…” Cấm vệ quân lấy ra một cuộn giấy mỏng từ trong tay áo, “Có lẽ là thứ này, mời Quan gia xem.”

Tiểu hoàng môn nhanh chóng dâng cuộn giấy lên ngự tiền, Triệu Sơ xem qua rồi đưa cho quần thần kiểm tra. Thượng thư bộ Hình giao cuộn giấy cho Đường chủ sự bên cạnh, cất bước tiến lên, “Quan gia, thần cũng tán thành với lời của Chiêu vương điện hạ, cho rằng cần phải điều tra rõ chân tướng trước, nhưng tình hình bây giờ… hầy!” Ông ta thở dài một hơi nặng nề, chần chừ một lúc rồi quyết định, “Nếu trong thành có kẻ xấu nhân cơ hội làm loạn, thì việc cấp bách bây giờ là dùng cách của Trương đại nhân, đầu tiên giải tán bớt bách tính tụ tập ngoài kia, thần xin dùng cấp hàm của Thượng thư bộ Hình ra bảo đảm, đợi hết hôm nay, thần nhất định dốc hết sức hỗ trợ Chiêu vương điều tra chân tướng.”

Cấm vệ quân lúc nãy lên tiếng: “Bẩm Quan gia, lúc mạt tướng vào cung thì phát hiện có bách tính không chịu nổi lạnh, đã hôn mê bất tỉnh ngay trước cửa cung. Nhưng đám đông ngoài kia vẫn không có ý định di tản, trái lại càng căm phẫn hơn.”

Đại Lý Tự khanh sải bước đi lên, sóng vai với Thượng thư bộ Hình, “Quan gia, thật ra thần cũng tán thành ý của Chiêu vương đại nhân, cho rằng chân tướng cần được làm rõ, nhưng… việc giải tán dân chúng là điều khẩn cấp, nay xem ra chỉ có thể tạm dùng cách của Trương đại nhân, đầu tiên thuyết phục dân chúng rời đi, thần sẵn sàng dùng thanh danh làm quan nửa đời để bảo đảm, chỉ cần qua được ải trước mắt, thần nhất định không ngủ không nghỉ, sẽ cùng các vị đồng liêu tìm ra sự thật.”

“Bẩm Quan gia không được!” Thanh Duy cuống lên: “Có thể dân nữ không cân nhắc thiệt hơn bằng các vị đại thần ở đây, nhưng dân nữ là bách tính thứ thiệt, hiểu rõ nhất ý dân. Tuy cách của Trương Nhị công tử có thể thuyết phục được hơn nửa đám đông tụ tập ngoài kia, nhưng chắc chắn vào lúc này ở trước cửa cung, vẫn sẽ có người chờ đợi chân tướng thật sự giống dân nữ.”

Nàng nghe nói sau khi vụ án Hà thị khép lại, Phù Đông và Mai Nương đã hoàn lương, mở một quán rượu nhỏ ngoài ngoại ô kinh thành; nàng nghe nói sau khi ông cháu họ Cát và Tú nhi cô nương lên kinh làm chứng xong, bọn họ vẫn chưa về mà đang ở lại kinh thành.

Những gì nàng nghe được chỉ lác đác vài người, nhưng đâu đó ngoài kia vẫn còn rất nhiều người như thế nữa.

“Một khi dân chúng đã đánh mất niềm tin vào triều đình thì rất khó lấy lại. Dù sau này có tìm ra sự thật bố cáo thiên hạ, triều đình cũng không bao giờ xóa bỏ được sự thất vọng trong lòng họ.”

“Trẫm cho rằng…” Triệu Sơ cân nhắc một hồi, đoạn từ tốn lên tiếng, “Chiêu vương nói có lí, tìm ra chân tướng, trả lại chân tướng mới là con đường đúng đắn. Những biện pháp khác chỉ mang tính chiếu lệ.”

“Nhưng Quan gia!”

Vị đại nhân họ Từ đang muốn biện giải, Triệu Sơ đã giơ tay ngắt lời:

“Tiển Khâm Đài đã gây ra vết thương cho quá nhiều người, bọn họ không thể chịu thêm sự thất vọng nào khác nữa.

Tuy trẫm là quân vương, nhưng trong vùng xoáy này, trẫm cũng giống Chiêu vương, Ôn thị và những người Ôn thị đã nhắc đến, là những người đang chờ đợi chân tướng sự thật.

Truyền khẩu dụ của trẫm, cử ba đội cấm vệ quân ở Điện Tiền Ti mở đường, nhất định phải áp giải Chương Hạc Thư đến đây, lâu đến mấy trẫm vẫn chờ, tới khi điều tra rõ mới thôi.”

Điện Tiền Ti đang tìm kiếm Đôn Tử khắp ngõ ngách, thế mà tận chiều tối mới quay về, có thể tưởng tượng khu vực phụ cận thành Tử Tiêu đông đến mức nào, dù có cử ba đội đi mở đường thì e rằng phải đến sáng mai mới đưa được Chương Hạc Thư về.

Nhưng vị hoàng đế trẻ tuổi trầm lặng này rất ít khi mở miệng, còn một khi đã lên tiếng, mỗi lời thốt ra đều nặng nghìn vàng.

Gia Ninh đế đã quyết, chư thần có khuyên cũng vô dụng.

Đại điện Tuyên Thất lần nữa trở nên yên tĩnh, chỉ còn tiếng gió thuyết rít gào ngoài kia, hoàng hôn mênh mông trải dài trước điện, cũng một màu trắng xóa tựa tuyết. ngoài điện hẵng còn sáng, nắng chiều xuyên tầng mây thắp lên một ngọn đèn vàng mờ ảo trên trời. Nội thị gác ngoài đại điện mới sực nhận ra đã đến giờ thắp đèn. Hắn cầm một ngọn nến dài, cùng vài nội thị nối đuôi đi vào, lặng lẽ thắp sáng đèn trong điện. Đại điện lặng đến nỗi có thể nghe thấy tiếng kim rơi, một nội thị không kìm được tò mò lặng lẽ ngẩng đầu lên nhìn, có người sốt ruột ra mặt, có người rất bình tĩnh thong dong, hắn nữ cô nhi đó mím chặt cánh môi, một mực nhìn ra ngoài cung, cũng nhìn thấy hoàng hôn trong đôi mắt trong veo của Tiêu Chiêu Vương, thấy gió tuyết ngập trong mắt Quan gia, còn gió xuân liễu rủ trong mắt Trương Nhị công tử lại biến mất, chìm xuống vực sâu.

Dường như bọn họ đang chờ đợi điều gì đấy.

Nhưng rốt cuộc là gì mà khiến những người này phải chờ đợi?

Nội thị không hiểu.

Không biết đã bao lâu trôi qua, bên ngoài đại điện truyền đến tiếng bước chân gấp gáp, mọi người cùng nhau nhìn ra ngoài, thấy tiểu hoàng môn truyền lời quỳ xuống trước cửa, Đường chủ sự sốt ruột hỏi: “Có phải Chương đại nhân đến không?”

“Không, không phải ạ…” Tiểu hoàng môn chạy gấp thở không ra hơi, lấy lại bình tĩnh mới tâu, “Bẩm Quan gia, là…là lão thái phó vào cung.”

Trương Viễn Tụ chấn động nhìn gã nội thị.

Triệu Sơ cũng ngạc nhiên, đi vòng ra từ sau long án, “Có đúng là lão thái phó không?”

“Vâng ạ. Lão thái phó tự vào cung. Nghe nói sáng sớm nay lão thái phó đã quyết định yết kiến, nhưng do tắc đường xe ngựa không đi được, thái phó buộc phải đi vòng tới cửa bắc.”

Sức khỏe của lão thái phó không tốt, lại còn rất sợ lạnh, nghe bảo ông vừa về kinh là đổ bệnh, hai hôm trước thái y còn đến khám, nói tuy lão thái phó chỉ ở trong nhà chính nhưng các phòng khác cũng đặt than liên tục, người trong phủ sợ nếu thái phó bị lạnh thì bệnh tình càng nặng thêm.

Triệu Sơ nói: “Nhanh tuyên gặp.”

Ánh đèn chiếu nghiêng, một lão giả tóc hạc da gà, quấn áo lông cừu chống gậy bước vào điện, ông chậm rãi đặt gậy gỗ xuống, đầu gối chạm đất hành đại lễ, “Quan gia, thần xin bái kiến Quan gia.”

Lão thái phó là người thầy xuất chúng, học trò khắp thiên hạ, ông mở học phủ từ thời Hàm Hòa, đến đầu năm Chiêu Hóa, gần một nửa văn sĩ trong triều đều là học trò của ông, thậm chí Chiêu Hóa đế cũng từng được ông chỉ dạy.

Dù Triệu Sơ là quân nhưng đương nhiên không thể nhận đại lễ của ông, chàng vội xuống bệ đài, đích thân dìu dậy, “Sao thái phó lại hành đại lễ? Mau đứng lên đi!”

“Quan gia,” Lão thái phó né đi không cho chàng đỡ, kiên quyết dập đầu, “Quan gia, thần đến để nhận tội.”

Triệu Sơ sửng sốt, nhưng rồi nhanh chóng nghĩ đến điều gì đó, ánh mắt lập tức khôi phục bình tĩnh: “Thái phó nói đùa. Thái phó… có tội gì?”

“Không, thần có tội, tội của thần đáng chết muôn lần…”

Lão thái phó đã già, lời nghẹn ngào như gió thì thầm, “Triều đại Chiêu Hóa, tiên đế từng xử lí một nhóm sĩ tử bênh vực Cật Bắc, Chương Hạc Thư đã nhờ Khúc Bất Duy âm thầm cứu họ. Các sĩ tử ấy… thật ra chính là do lão thần nhờ Chương Hạc Thư cứu.”

***

“… Sau năm Chiêu Hóa thứ bảy, sức khỏe của lão thần ngày càng yếu đi, số lượng học trò thu nhận rất ít. Nhưng sau mùa thu năm Chiêu Hóa thứ mười một, quả nhiên có một vài hạt giống tốt ở kì thi Hội, và có một người lão thần rất quý, mẹ của cậu ta là người Cật Bắc… Đúng lúc ấy tiên đế quyết định xây dựng đền Tiển Khâm, trong kinh có rất nhiều sĩ tử phản đối, mà người phản đối kịch liệt nhất lại chính là cậu học trò lão thần xem trọng và những người bạn của cậu ta, cậu ta nói triều đình có lỗi với Cật Bắc, thậm chí mẹ cậu ta đã mất trong chiến tranh, bây giờ thay vì chi sức tiền sức của xây dựng một ngôi đền, chi bằng bỏ tiền cứu trợ Cật Bắc…

Người tuổi trẻ mà, không thể tránh khỏi hành động bồng bột, có đôi khi trong lòng nghĩ một chuyện, lời nói ra lúc đang phẫn nộ lại là chuyện khác, chỉ vài câu nói vô tâm lại bị kẻ cố tình nghe thấy, biến thành bằng chứng mạo phạm triều đình, chỉ trích sĩ tử nhảy sông, cộng thêm việc bọn họ còn có mâu thuẫn với nha môn, đả thương quan sai, tiên đế mới trừng phạt cảnh cáo.

Xử lưu đày thực sự quá nặng, lão thần cầu xin tiên đế khai ân mấy lần, nhưng tiên đế cũng chỉ đổi lưu đày mười năm thành bảy năm. Dù ít năm đi thì cũng ích lợi gì? Bọn họ là nhân sĩ cơ mà, một nhân sĩ bị lưu đày, gánh tội danh xúc phạm triều đình, coi như cả đời không thể làm quan, thậm chí cũng không ai thuê dạy học. Bao năm đèn sách coi như đổ sông đổ bể, lão thần một đời làm thầy dạy học, không đành lòng nhìn chuyện như thế xảy ra. Vào lúc lão thần lo lắng không biết giải quyết thế nào, Chương Hạc Thư đã đến tìm lão thần…”

***

“… Thái phó đại nhân có muốn cứu các sĩ tử bị lưu đày không?” Chương Hạc Thư bước vào cửa phủ thái phó, thấy thị tì vừa lui, liền đi thẳng vào vấn đề: “Theo hạ quan thấy không thể tìm cách công khai rồi, nhưng vẫn còn đường tắt để đi đấy.”

Lão thái phó biết lời Chương Hạc Thư nói có lẽ là biện pháp duy nhất lúc này, ông chần chừ hồi lâu, cuối cùng hỏi: “Dám hỏi Nguyên Khải, đường tắt ấy đi kiểu gì đây?”

“Chuyện này không khó, chỉ cần tìm biện pháp tráo đổi sĩ tử trên đường áp tải, sau đó tìm cách thay tên đổi họ cho bọn họ là xong.”

“Nếu thay tên đổi họ, chẳng phải bọn họ không thể tham dự kì thi khảo hạch vào mùa xuân năm sau sao?”

Chương Hạc Thư cười nói: “Dù gì cũng là người có tội, nên sống lặng lẽ chút. Hơn nữa Quan gia cũng không xử oan bọn họ… Nhưng thái phó đại nhân không cần thấy tiếc, tuy không thể làm quan nhưng vẫn có làm thư lại chẳng hạn, hoặc là mở trường dạy giống thái phó đại nhân đây, truyền dạy thi thư, cũng coi như không phụ bao năm đèn sách, chẳng phải điều thái phó đại nhân tiếc nuối nhất chính là tài học của bọn họ sao?”

***

Lão thái phó nói: “Lão thần biết Chương Hạc Thư đến là có chuyện muốn nhờ vả, lão thần hỏi hắn muốn gì, Chương Hạc Thư nói, hắn nghe bảo sau khi xây xong đền Tiển Khâm, tiên đế sẽ đích thân đến nơi cúng bái, triều đình sẽ chọn con cháu thế tộc đi theo, hắn cảm thấy lão thần có thể khuyên được tiên đế, nên hắn muốn tự chọn vài người học trò, nhờ lão thần nhắc tên của họ với tiên đế.”

Tạ Dung Dữ hỏi: “Thái phó đại nhân, Chương Hạc Thư có đề cập đến lý do tại sao ông ta làm điều này không?”

“Có.” Lão thái phó gật đầu, “Hắn nói tuy mình xuất thân trong thế gia đại tộc, nhưng tuổi thơ của hắn rất cơ cực, thậm chí còn bị người trong tộc đẩy đi gánh tội thay người trong dòng chính, trải qua một phen lận đận mới đi được đến hôm nay, hắn đã hạ quyết tâm, rồi sẽ có ngày học trò nhà nghèo cũng ngang bằng với nhà quý tộc, sẽ có thể tự phát biểu bằng vào bản lĩnh của cá nhân. Những sĩ tử hắn chọn đều là người dòng thứ ở các gia đình quý tộc, có tài và cũng được ăn học đàng hoàng, hắn không mong bọn họ đi vào vết xe đổ như mình ngày trước, mà sẽ xuôi chèo mát mái gió hơn, muốn mở con đường dẫn đến mây xanh cho họ.”