Herbert đã chuẩn bị tinh thần cho một trận đánh tầm gần với mũi nhọn chìa khóa làm vũ khí duy nhất, khi cậu nghe thấy tiếng Asmodeus ngáp một hơi thật dài. Cậu thở phào nhẹ nhõm, vì Asmodeus không trông thấy cậu ở đó, và chiếc tủ đang che chắn cho cậu – nhờ một vận may tuyệt vời – lại là nơi Asmodeus dùng để pha cà phê. Herbert có thể nghe được tiếng lanh canh của thìa gõ vào thành cốc, và mùi cà phê mới sớm tỏa ra trong không trung. Nhưng cậu bé biết mình sẽ không an toàn được lâu, một khi Asmodeus uống xong cốc nước của mình, hắn sẽ xuống lầu, và sẽ phát hiện Herbert đã cố gắng tẩu thoát.

Không chần chừ nữa, Herbert nhặt đại một chiếc nút dưới sàn và ném qua bên kia căn phòng. Lập tức Asmodeus hướng tai về phía nó, và khi hắn nghe tiếng chuột kêu mà thực chất là do Herbert tạo ra, hắn không nghi ngờ gì mà trườn về phía tủ đựng thuốc hóa học. Herbert lấy mấy cánh hoa cà dược trong túi ra và vò nát, rồi cậu đủ khéo léo nhón người lên từ phía sau kệ tủ để trộn chúng vào cốc cà phê của kẻ kia.

Asmodeus vừa hướng lại chiếc tủ vừa làu bàu chửi thề về lũ chuột muốn gặm nhấm tài liệu của hắn. Hắn nốc cạn cốc cà phê không chút đắn đo, và sau một, hai, ba giây, hắn mới nhận ra đã quá muộn, và hắn lảo đảo trước khi ngã úp mặt xuống sàn nhà. Herbert nhảy vọt ra từ chỗ nấp, dùng hết chút sức lực cuối cùng cậu lao ra cửa, nhưng lập tức bị túm lấy cổ chân khi cậu gần đến nơi.

"Thằng quỷ con, mày thuốc tao!" Asmodeus trong cơn chếnh choáng rít lên, nhe nanh vì tức giận và vuốt sắc víu và mắt cá chân cậu bé, khiến cậu cũng phải ngã nhào ra sàn. "Mày nghĩ mày có thể chạy đi như thằng em Ludwig của mày hả?" Hắn gầm gừ, "Tao đã đánh giá thấp mày, phải không? Mày khôn và gan hơn nó đấy, nhưng mày cũng sẽ giống như nó phải chôn chân ở đây thôi!"

Với một tiếng hét hắn kéo Herbert lại gần hơn, rít lên và gầm gừ hệt như một con quái vật đang điên tiết, sẵn sàng ăn tươi nuốt sống con mồi. Herbert thấy cảnh này cũng phải khóc thét, khi chân cậu cứ bị kéo giật lùi cậu dùng hết sức và sự can đảm đạp mạnh vào mặt hắn. Asmodeus kêu lên nhưng vẫn không buông tay, và rồi một chiếc ghế đẩu giáng độp xuống đầu mới khiến hắn thật sự ngã gục. Lập tức Herbert lồm cồm bò dậy và chạy xuống tầng, Asmodeus nổi cơn tam bành trườn theo ngay sau lưng cậu. Khi cậu chạy ra đến cửa cái, Asmodeus đã không còn xa và thả mình xuống khỏi cửa tầng, chiếc đuôi vẫn còn đang treo lủng lẳng trên chiếc thang dây. Herbert cảm thấy cậu phát điên lên mất, tay không ngừng tra chìa vào ổ để xem chìa nào mới được, trong khi con quái vật lai căng kia, dù chật vật ra sao, vẫn đang xông về phía cậu và hắn đang nổi cơn thịnh nộ!

Cánh cửa cuối cùng cũng ơn trời mở ra, và Herbert lách ra ngoài vừa kịp lúc để dộng thẳng nó vào mặt Asmodeus. Không có thời gian để mà chặn cửa, cậu chạy thục mạng khỏi ngôi nhà quỷ quyệt kia, băng qua những con hẻm và lối tắt dưới bóng tối mịt mù. Cậu không biết phải đi đâu, nhưng cậu cứ cắm đầu chạy, miễn là cậu được thoát khỏi Asmodeus. Cậu không biết mình đã chạy không ngừng nghỉ được bao lâu, chỉ khi đường phố đã hoàn toàn im ắng và chẳng có gì để trông thấy ngoài những cột đèn đường, cậu bỏ cuộc.

Có ai đó vỗ lưng khiến Herbert giật thót và quay phắt lại, chỉ để nhận một bàn tay lạnh lẽo bịt lấy miệng mình và ra hiệu cho cậu giữ im lặng. Dưới tranh tối tranh sáng, Herbert nhận ra gương mặt mà cậu từng rất sợ, một gương mặt góc cạnh chi chít sẹo với một con mắt đã mờ đục. Cậu lập tức thôi rên rỉ, và đó là lúc cậu được thả ra với một tiếng thở phào nhẹ nhõm.

"Anh Ludwig?" Herbert gọi, giọng vỡ ra và yếu ớt như tiếng kêu của một con mèo con bị thương. Người đàn ông không tin vào mắt mình:

"Herbert, anh tìm thấy mày rồi!" Gã thốt lên, và trước khi gã kịp định thần, Herbert đã nhoài người về phía gã để ôm cái ôm chặt đến mức gã tưởng sẽ chẳng bao giờ được nhận, buộc gã phải ngã ra sau và ngồi thụp xuống. Cậu bé bắt đầu thút thít vào vai áo anh trai, trong khi gã vuốt tóc cậu, nhẹ nhàng dỗ dành. Gã thủ thỉ, "Yên nào, chúng ta đang ở trên đường phố đấy. Mày sẽ không muốn ai bắt gặp chúng ta thế này đâu, phải không?"

"Em sợ lắm..." là câu trả lời, lẫn vào trong tiếng nấc. Ludwig chậc lưỡi:

"Anh biết, anh biết. Nhưng có anh ở đây rồi, được chứ? Để anh bế mày về nơi nào an toàn và ấm áp hơn."

"Vâng ạ..."

Ludwig về nhà với tâm trạng nặng trĩu – dù gã chẳng bộc lộ ra, với Herbert được cõng trên lưng mình. Cậu bé đã ngủ thiếp đi, giữa họ là bầu không khí im lặng tuyệt đối. Pip mừng rỡ khi họ trở về, nhưng nó đủ khôn lanh để hiểu lệnh từ người đàn ông kia rằng không được ầm ĩ. Giờ với Herbert đã ngủ say, Ludwig nhanh chóng băng bó lại viết thương quanh cổ chân cậu, rồi lấy một tấm vải ướt lau đi vết bùn đất trên gương mặt cậu bé, vũ khí lẫn kế hoạch do thám của gã tạm thời gác sang một bên.

Buổi sáng hôm sau là một trong những khi hiếm hoi mà Ludwig không ngủ. Khi bình minh chỉ vừa mới hé ra cái sắc xanh và chàm và Herbert vẫn còn đang ngủ say với Pip ngáy o o bên cạnh, Ludwig đứng dậy khỏi ghế cùng một sự biết ơn vì những gì đã xảy đến hôm qua, dù mọi sự có hơi chệch đi khỏi những gì mà gã đã mường tượng, và gã vớ lấy áo choàng, rồi rời khỏi nhà một cách nhanh chóng. Gã rải một hỗn hợp của muối tinh khiết và tỏi giã nhuyễn xung quanh khu nhà, nhăn mũi vì cái mùi nồng một cách kinh khủng, rồi hướng về phía của khu chợ trung tâm. Nó tọa lạc tại một quảng trường bận rộn phía tây nam Berlin, buôn bán sầm uất vào các ngày trong tuần với những người thợ hăng hái tháo dỡ hàng hóa từ trên xe tải ngay khi trời chỉ vừa chạng vạng sáng. Những cư dân nơi đây làm ăn khấm khá, vẫn còn hy vọng sẽ còn khá hơn nữa và khoe của cải thừa mứa của mình một cách nhẫn nha cám dỗ, vì thế mặt tiền dọc con đường ấy lộ vẻ mời chào, như những cô nhân viên bán hàng đứng tươi cười thành dãy. Khi mặt trời lên cao hơn thì nơi này được sơn vẽ bằng những màu sắc cũng quyến rũ hào nhoáng hơn, nở rộ với những sạp hoa và tràn đầy sức sống với những lò bánh, lập tức thu hút và làm vui con mắt của người qua kẻ lại.

Ludwig dừng chân tại tiệm thịt, một sạp hàng bằng gỗ được che chắn khỏi ánh mặt trời đáng ghét để giữ thịt được tươi, khi gã chờ người phụ nữ đứng tuổi bày trí xong mớ thịt lợn băm và thịt thăn bò. Gã mua một ít thịt bò xay, rồi lại đi tiếp, lần này đảo xuống hàng rau để mua một ít rau củ, vài loại gia vị cơ bản và ít hạt dẻ nướng, thêm thứ tỏi mà gã ghét, và cuối cùng, thêm muối. Ludwig chớp mắt khi người chủ tiệm đưa hắn một ánh nhìn thành khẩn:

"Tôi xin lỗi, nhưng tôi e rằng chúng tôi đã hết loại muối tinh khiến mà anh cần rồi ạ."

"Vậy sao?" Ludwig lẩm bẩm. "Thế thì khi nào mới có?"

"Tôi e rằng phải đến sáng mai xe hàng mới về đến đây được. Di chuyển giữa tuyết dày mùa này có hơi phiền phức, mong anh hiểu cho. Nếu anh cần gấp, vậy tôi xin gợi ý anh đến hiệu bào chế [1]. Khả năng cao họ vẫn còn bán loại muối này."

"Người bào chế sao? Có phải chỗ của họ là căn nhà cuối phố không bao giờ mở cửa không?"

"Đúng vậy ạ. Cứ đi thẳng vào thôi. Họ chỉ không thích người khác nhìn chằm chằm trong lúc đang làm việc."

"Tôi hiểu rồi. Cảm ơn nhiều nhé."

Khi Ludwig đến nơi của người bào chế thuốc, ánh nắng ngày đã soi sáng mọi nơi, và tuy không khí có lạnh lẽo nhường nào, thì gã vẫn cảm thấy da mình dưới lớp áo dày râm ran bởi sức nóng. Gã rít khẽ qua kẽ răng khi gã đóng cửa cửa hiệu lại.

"Buổi sáng tốt lành." Người bào chế nói ngay khi vừa nghe tiếng chuông cửa, và họ thật lòng khi nói vậy. Mặt trời đang vẽ nên những ô nắng ấm áp qua khung cửa sổ nhiều màu, và không khí cũng trong lành thoáng đãng. Tuyết sẽ sớm rơi đẹp đẽ trở lại thôi. Nhưng Ludwig nhìn họ dưới cặp lông mày rậm và xếch dường như muốn nhô ra hơn cả vành của chiếc mũ trùm tả tơi của gã.

"Tôi tin rằng buổi sáng này phải tốt lành dù tôi có muốn hay không, nhỉ?" Gã cay đắng đùa, đôi bốt gõ lộp cộp khi gã bước đi trên sàn nhà gỗ. Người bào chế từ bàn làm việc ngước nhìn lên:

"Chưa gì đã có một ngày tồi tệ rồi sao?"

"Ngày nào cũng là ngày tồi tệ." Ludwig thở dài. "Cậu có bán muối tinh khiết không?"

"Và để làm gì? Anh là nhà hóa học sao? Hay một sinh viên cần tiến hành thí nghiệm?"

"Vì sao tôi phải nói?" Ludwig hằm hè, và người kia vui vẻ đáp:

"Tôi chỉ muốn tán gẫu và tỏ ra thân thiện thôi. Thật xin lỗi vì đã làm anh phật ý. Tôi không giỏi giao tiếp cho lắm."

"Tôi cũng thế." Gã chậc lưỡi. "Dù gì thì, tôi cần nó để trộn ít bột trị rắn."

"Có rắn vào mùa đông sao?"

"Tin tôi đi, tôi cũng ngạc nhiên hệt như cậu. Đã gọi dịch vụ xử lý động vật rồi, nhưng cũng phải phòng thân trong khi đợi họ đến."

"Tôi hiểu rồi. Và anh định trộn nó với cái gì, nếu tôi được phép tò mò?"

"Tỏi băm."

"Tỏi băm?" Người bào chế chớp mắt ngạc nhiên.

"Sao?" Ludwig nhún vai. "Tôi thấy nhiều người già rải nó quanh vườn khi tôi còn bé, để đuổi bọn bò sát đi. Cũng hiệu nghiệm."

"Tôi đoán mỗi ngày đều có điều mới để học cho người học việc trẻ này." Người bào chế mỉm cười. "Thế anh cần bao nhiêu muối tinh khiết?"

"Lấp đầy thứ này là được." Ludwig đáp, đưa ra một chiếc lọ rỗng. "Không cần nhiều. Đằng nào tôi cũng chẳng có sân vườn."

"Được rồi. Của anh đây."

Chiếc lọ rỗng sớm được đổ đầy muối trắng, Ludwig trả tiền rồi cất gọn vào túi xách, rồi nghía nhìn xem người bào chế đang làm gì. "Cái đó là gì vậy?" Gã hỏi.

"À, thứ này á?" Người kia đáp, vừa nói vừa vun vén lại một đụn bột màu cam trước khi cẩn thận đổ nó vào hộp. "Bột hùng hoàng. Mẻ mới về sáng nay."

"Hùng hoàng?" Giọng Ludwig lộ ý thắc mắc. Người bào chế trả lời:

"Anh có nghe qua chất arsenic chưa?"

"Tôi nghĩ vậy. Đây là nó à?"

"Không phải bản thân chất đó, mà là hợp chất của nó." Người kia gật đầu.

"Nó dùng để làm gì?"

"Từng dùng làm pháo hoa, trước khi nhôm trở nên phổ biến. Từng dùng trong vài loại ngư lôi nữa."

"Pháo hoa và ngư lôi sao? Vậy nó vận hành như thuốc súng à?"

"Không hẳn. Nó được dùng để tạo ra tia sáng trong pháo hoa, dù bây giờ người ta chuộng những kim loại dạng bột khác bởi ít nguy hiểm hơn nhiều. Nhưng nhiều thế kỷ trước thì bột hùng hoàng được dùng để mồi các mũi tên lửa, nên là, cơ bản thì anh cũng không sai."

"Thú vị lắm." Ludwig ngâm nga.

"Nhỉ?" Người bào chế gật gù. "Nhưng tôi nghĩ thông tin này mới thật sự thú vị với anh đây. Nó có thể là phương án thay thế khá hoành tráng cho thứ bột trị rắn của anh đấy."

"Thật sao?"

"Rắn ghét cái mùi này, nên nó có thể dùng làm phương án trong trường hợp khẩn cấp. Chỉ cần đảm bảo anh mặc đồ bảo hộ khi rải nó là được. Nó có thể gây hại nếu tiếp xúc trực tiếp lên da hay hít phải. Một chất khá độc."

"Làm thế nào để tôi mua thứ bột này?"

"Mua?" Người bào chế ngước lên, chớp mắt ngạc nhiên.

"Hỏi mua chẳng lẽ có gì lạ lắm à?" Ludwig đáp. Người bào chế lập tức lảng mắt đi.

"Bạn tôi ơi, hộp này là để tôi học, không phải để bán. Vả lại, vì tính độc của nó mà nó cũng là một trong những chất bị kiểm duyệt. Tôi không thể mua mẻ mới sớm được đâu."

"Cứ ra giá đi, tôi trả." Ludwig van nài, giọng bất chợt trở nên ngọt ngào khiến người kia rùng mình. Họ lắc đầu:

"Tôi e rằng không thể. Tôi không dám đánh cược sự nghiệp mình với pháp luật đâu. Anh cần có giấy phép."

"Nếu tôi trả giá cao hơn giá thị trường thì sao?" Ludwig gợi ý. Người bào chế dường như phật lòng và cao giọng:

"Xin lỗi? Anh nói nghe như hối lộ vậy!"

"Thôi nào, chẳng lẽ trông tôi giống mấy thằng cha bẩn thỉu cố gắng nịnh nọt để nhận chức sắc lắm à?"

"Phần tiền thêm của anh cũng không xứng với thời gian bị nhốt vào tù nếu như tôi bị bắt đâu." Người kia thốt lên, vội vã giấu chiếc hộp vào trong ngăn kéo. Ludwig kêu than, vai sụp hẳn xuống một cách cường điệu:

"Được rồi, có giấy phép là được chứ gì?"

"Phải. Một khi có giấy phép, tôi có thể bán cho anh một ít."

____________________________________________

[1]: Apothecary – Người bào chế thuốc ngày xưa. Bây giờ có thể hiểu nôm na là hiệu thuốc tây – pharmacist.

Nguồn ảnh: unknown.