Sáng sớm hôm sau, Nhiếp Hoằng đã cho gọi Nhiếp Hàn Thanh đến bàn luận.

Là chuyện chiến sự.

Theo tình báo mới nhất, Nhung Lô thất thủ, đã bị sát Vu Điền sáp nhập.

Trước đó Thánh Thượng đã cử đại thần đi xứ nhằm hoà giải mối quan hệ giữa các nước Tây Vực, cũng đã dùng tiền bạc và nữ nhân để thương lượng. Nhưng kết quả đều bị từ chối.

Sau khi thống nhất Trung Nguyên, gây dựng triều đại, Thế tổ đã tổ chức một cuộc hội nghị với các bộ tộc phương Bắc vẫn Tây Vực với mục đích gây dựng lòng tin, ký kết minh ước. Hao tâm tổn trí là như thế, chung quy lại cũng chỉ là muốn thu phục vùng đất Lưỡng Châu sát biên giới Trung Nguyên Tây Bắc mà nhiều đời Hoàng đế tiền triều đều không làm được.

Thu phục Lưỡng Châu là một phần. Cái sâu xa hơn chính là lôi kéo, kìm hãm rồi thao túng người Hồ, từng bước thao túng các thế lực quân sự đang chiếm cứ Tây Bắc, giải trừ hậu hoạ khó lường về sau, cho dân chúng biên ải được sống yên ổn, cho người dân Đại Trưng được thái bình, không phải chịu cảnh vừa phải đối địch với kẻ này, vừa phải đề phòng thế lực khác làm càn. Một khi để vó ngựa của chúng xuôi Nam thì đại hoạ vong quốc khó mà tránh khỏi.


Thế nhưng chỉ phân nửa là chịu quy phục, các man tộc còn lại đều cho rằng Đại Trưng đang coi thường chúng, nghĩ rằng có thể dùng vàng bạc châu báu hay mỹ nhân để chúng chịu quy thuận sao?

Giờ đây Lưỡng Châu chưa lấy được, nước chư hầu lại đang xảy ra tranh chấp. Nếu Hoàng đế không hạ chỉ xuất chinh cứu viện Tây Vực thì e là sẽ mang tiếng thất tín với chư hậu, sẽ kéo theo rắc rối sau này.

Đại Trưng thực sự bị đẩy vào thế bị động. Không đánh không được!

Biệt uyển phía đông bắc.

Nhiếp Hàn Thanh đi theo sau một hầu cận chậm rãi bước vào hành lang dài thênh thang.

Sáng sớm tinh mơ, giữa trời đông mới chỉ lất phất vài bông tuyết trắng muốt qua tầng mây mỏng chầm chậm đáp xuống, 

đấu củng màu son, mái đao cong hoa văn màu tinh xảo, ngói lưu ly xanh ngọc chợt ẩn chợt hiện trong màn sương mờ ảo.


Bên ngoài tệ xá của Nhiếp lão gia là vô số nội thị, vừa thấy Nhiếp đại công tử, không ai nói với ai câu nào, chúng liền lập tức cúi người mà dạt ra.

Trong tư phòng rộng lớn phía, Nhiếp Hoằng ngồi lặng thinh phía sao tấm bình phong mà nhắm mắt trầm tư.

Nhiếp Hàn Thanh bước lên bậc thềm thứ nhất, Nhiếp Hoằng liền mở mắt, vén tay áo châm cho mình một chén trà.

"Tham kiến phụ thân"..

Nhiếp lão gia không vội đáp, ông nhẹ nhàng thổi nguội chum trà rồi chầm chầm nhấp một ngụm.

Lư hương đầu nghê mạ vàng đặt trước bàn, tảo ra một màn sương nhẹ, trong không khí tràn ngập khói xanh mùi uất kim hương.

"Vào đi".

Bước chân của Nhiếp Hàn Thanh vô cùng nặng nề, không giống với vẻ khoan thai của y hằng ngày.

Trên bàn văn thư tấu chương xếp chồng chất cao như núi, bút lông, mực nghiên, trấn chỉ*, thủy vu* lộn xộn chen trong góc, sách sổ lật mở qua loa chất đống, là một mớ hỗn độn.


*đồ chặn giấy, bát nước, đồ thư phòng ngày xưa.

Đôi mắt phượng đen sâu khẽ nheo lại, phía dưới là quầng mắt lớn. Nhiếp Hàn Thanh đoán chắc cả đêm qua phụ thân đã không ngủ mà lo chính sư.

Tuy thiếu ngủ nhưng lão không có mấy phần mệt mỏi, vẫn ung dung điềm đạm như vậy.

Nhiếp Hàn Thanh ngồi xuống, hai phụ tử đối diện nhau nhưng lại không hé nửa lời.

Ông ngồi đó, nhướng đôi mày rậm nhìn y, chậm rãi cất giọng khàn: "Hôm qua trên nội điện cũng đã bàn bạc xong xuôi mọi chuyện với Thánh thượng, ngươi chắc hẳn cũng hiểu tình thế lúc này".

Nhiếp Hàn Thanh rũ mi mắt, không trả lời mà hỏi ngược lại: "Muốn khởi binh trước đều phải bàn chiến lược ứng phó trước, nay Thánh thượng đột ngột hạ chỉ mà chưa có sự sắp xếp sao?".

"Thánh Thượng không nói với ngươi không có nghĩa là không có". Nhiếp Hoằng chậm rãi đáp.
Y sững người, ngẩng đầu nhìn phụ thân, một tia suy nghĩ xẹt qua trong đầu, y siết chặt tay:

"Không lẽ...".

"Lần này ngươi không cần trực tiếp ra trận, tổng quản hành quân xuất chinh lần này là Lê công".

"!!!".

Nhiếp Hàn Thanh tròn mắt nhìn phụ thân, gương mặt trắng toát đến lạnh người, giọng y dần mất bình bĩnh:

"Tại sao lại như vậy!? Ít nhất Thánh thượng cũng nên nói với con một câu chứ! Sao con lại không thể trực tiếp ra trận? Vả lại Lê công cũng đã có tuổi, để ngài làm tổng quản hành quân lần này không phải là mạo hiểm sao?".

Tay Nhiếp Hoằng tay vân vê chén trà sứ màu rêu, cụp mắt nói: "Lần Thánh thượng để ngươi dẫn đầu quân lương cũng vì lo cho vết thương chưa khỏi của lần đánh trận trước của ngươi đấy. Lê công tuy có tuổi nhưng cũng đã dành gần như cả đời trên chiến trường, là một người dày dặn kinh nghiệm, để ngài làm tổng quản hành quân chỉ có lợi, không có thiệt!".
Nhiếp Hàn Thanh không đáp lại, y tối mặt.

Nhiếp Hoằng đặt chén trà xuống, xoa xoa cằm: "Ta biết ngươi không can tâm, nhưng đây mới chỉ là thảo luận bước đầu, sao này có lẽ sẽ có thay đôi. Thế sự vô thường, đánh trận cũng vậy".

Ông dừng lại một lúc, đoạn nghiêm giọng, mắt phượng đen sâu híp lại, từng câu từng chữ đều nặng nề mà sắc lạnh như muốn khắc sâu vào đầu Nhiếp Hàn Thanh, vĩnh viễn không phai:

"Nhớ, tính mạng mới là thứ quan trọng".

...

Trong khuê phòng Tam tiểu thư, Nhiếp Tư Mặc ngồi trên ghế cạnh bàn trà, tay đùa nghịch với viên minh châu, miệng cười tủm tỉm.

Cửa phòng mở ra, tiếng bước chân không nhanh không chậm tiến vào không chút kiêng dè.

Nàng lập tức quay lại, nụ cười trên môi càng rạng rỡ hơn.

"Nhị ca!".

Nhiếp Tĩnh dựa khép cửa lại, hắn tiến tới ngồi cạnh, vốt vốt bả vai nhỏ nhắn của nàng, nhẹ cất giọng:
"Sao hả, thích không?".

Viên minh châu này Nhiếp

Viên minh châu to bằng lòng bàn tay này là của Đôn Hoàng, khi đi qua sa mạc Tháp Khắc Lạp Mã Can* trên con đường tơ lụa, hắn lần đầu nhìn thấy viên minh châu to tròn toả ra ánh sáng dịu nhẹ mà trong trẻo tựa như ánh trăng này, hắn liền nghĩ ngay đến tiểu muội. Nàng từng nói với hắn rất muốn nhìn ngắm nhìn ánh trăng ở Tây Vực, hắn liền lập tức mua luôn mà không đắn đo.

*Sa mạc Taklamakan, nằm tại Trung Á.

Nhiếp Tư Mặc cười tươi gật đầu: "Thích ạ!".

Nhiếp Tĩnh đăm chiêu ngắm nhìn viên minh châu trong tay Nhiếp Tư Mặc, ngữ khí trầm ấm: "Viên minh châu to và tròn như vậy thật sự rất hiếm, lúc trở về ta tình cờ bắt gặp một thương nhân bán vô số sản vật của Đôn Hoàng, và viên minh châu này đã lọt vào tầm mắt của ta. Vừa nhìn thấy nó ta lập tức nhớ đến muội. Ta nhớ muội từng nói muốn đến Tây Vực ngắm trăng, ta lại thấy thứ ánh sáng trong trẻo của viên minh này rất giống".
Nhiếp Tư Mặc chăm chú nhìn ngắm viên châu quý, trong lòng không khỏi cảm thán, thốt lên: "Nếu thật như huynh nói vậy thì ánh trăng trên Tây Vực đẹp quá!".

Hắn chống tay lên bàn, nghiêm mặt nhìn nàng, cười đắc ý: "Vậy Tam nương có muốn xem một bất ngờ khác không?".

"Huynh còn gì khác sao?".

Nhiếp Tĩnh lấy áo choàng lông khoác lên vai nàng, đoạn dắt tay nàng tiến ra cửa.

Vẻ hào hứng của Tư Mặc lộ rõ trên gương mặt, đôi mắt. Nhiếp Tĩnh vỗ vỗ nhẹ vai nàng, cười nói: "Ra ngoài đi rồi sẽ biết".

Nàng không kìm lòng được, vừa nhìn nhị ca, vừa phấn khích đẩy cửa: "Huynh lại có món bảo bối nào thú vị sao?".

Cửa vừa mở toang, Nhiếp Tư Mặc lập tức ngây người, đôi mắt mở to ngơ ngác, miệng đang nói bỗng chốc đơ ra, kế sau đó khoé môi dần kéo cao hơn.

Trước sân trang viên rộng lớn bao la tuyết trắng là một con ngựa có bộ lông đen tuyền, lông mao dài mượt, khi ánh sáng chiếu vào lại lập loè óng ánh. Khác với giống ngựa cao to thường được sử dụng trên chiến trường thì con ngựa này lại mang dáng dấp thon thả yểu điêu, không cao cũng không thấp, rất vừa tầm với của Nhiếp Tư Mặc.
Bên cạnh Cảnh hộ vệ một thân vận áo choàng lông vũ và một hậu cần khác đang giữ dây cương ngựa.

Nàng khực lại lúc lâu sau đó lập tức chạy ào tới, nụ cười tươi rói điểm trên môi nàng. Nhiếp Tư Mặc phấn khích xoa xoa bộ lông mao của con ngựa.

"Nhị ca con ngựa này đẹp quá!".

Con ngựa này rất ngoan và hiền lành, thấy nàng vuốt ve bộ lông, nó cũng cúi xuống mà dụi dụi vào lòng nàng, không có một chút gì là biểu tình.

Nhiếp Tĩnh đi tới bên cạnh, khoanh tay ngắm nhìn nàng rồi nói:

"Ta cũng đắn đo suy nghĩ mãi, dù sao thì học cưỡi ngựa cũng tốt, muội có thể chủ động di chuyển tùy thích. Con ngựa này ta mua của một đội buôn từ Quy Tư, dáng ngựa không quá cao, sẽ thích hợp với muội".

Nàng xoa xoa đầu nó, nét mặt phấn khởi: "Nhị ca, huynh đúng là tốt với ta nhất".

"À phải rồi, con ngựa này tên gì vậy?".
Nhiếp Tĩnh liếc nhìn nó một lúc rồi vội quay sang nàng: "Chưa có, muội muốn gọi nó là gì cũng được".

Cau mày một lúc lâu, Nhiếp Tư Mặc cúi xuống trước mặt con ngựa, nở một nụ cười dịu dàng nói với nó:

"Vậy...từ nay gọi ngươi là Hắc Lang đi".

Được đặt cho một cái tên, con hí lên một tiếng rồi cạ cạ bộ lông óng mượt đen tuyền lên mặt má nàng.

Nhị ca đứng bên cạnh cũng vui lây, hắn đón lấy dây cương từ tay Cảnh Vũ rồi nói: "Ta không nghĩ Hắc Lang lại là một con ngựa hiền lành như vậy, hoặc có thể nó thích muội".

Đoạn hắn hơi ho nhẹ một tiếng, vẻ mặt chuyển sang nghiệm nghị: "Mặc Nhi, tuy ta cho phép muội học cưỡi ngựa nhưng không có nghĩa muốn làm gì thì làm. Tất cả đều phải do ta giám sát. Tuyệt đối không được quá sức".

Nhiếp Tư Mặc đổi sang dáng đứng thẳng tắp như một cây kiếm, nàng hô rõ: "Nhị ca cứ yên tâm, từng câu từng chữ của huynh tiểu muội đây sẽ nhớ rõ, tuyệt đối sẽ không ngang ngược!".
Hắn véo chóp mũi nàng, cười nhoẻn: "Được rồi, yên ngựa cũng đã lắp xong xuôi, cũng đã làm chào hỏi với Hắc Lang. Trước hết muội thử leo lên yên làm quen làm quen với ngựa trước đã".