Quý Hiểu Âu theo xe cấp cứu tới bệnh viện.

Chạy tới chạy lui khiến toàn thân cô toát rã mồ hôi, cuối cùng, sau khi tạm ứng viện phí và tiền thuốc, thấy y tá treo bình truyền nước, cô mới cảm giác được cơn đói bụng cồn cào, tính ra từ 10h sáng đến 9h tối cô vẫn chưa được một hạt cơm vào bụng.
Khi cô xách hai hộp cháo mua ngoài cổng về đến phòng bệnh, cậu trai đã tỉnh, tuy sắc mặt vẫn xanh xao nhưng đã khá tỉnh táo, gương mặt cũng có chút huyết sắc.
Quý Hiểu Âu bấy giờ mới thở phào, mỉm cười với cậu: “Bạn Trạm Vũ à, bạn chơi trò gì đáng sợ quá vậy, tôi nghiêm túc cảnh cáo cậu, trò này không vui đâu, không vui tí nào.”
Vừa nãy khi cố gắng tìm cách liên lạc với gia đình cậu, Quý Hiểu Âu đành phải miễn cưỡng lục cặp sách cậu trai.

Cô không chỉ trông thấy huy hiệu quen thuộc của trường đại học L ở đằng sau cặp sách, mà còn thấy cả cuốn giáo trình và thẻ sinh viên của cậu.
Cậu trai có cái họ thuộc dạng hàng hiếm trong số cả trăm dòng họ ở Trung Quốc.
Cậu tên đầy đủ là Trạm Vũ.

Trạm trong Trạm Giang, Vũ trong từ lông vũ.

Là sinh viên năm thứ ba ngành thiết kế phần mềm của trường đại học L.
Bắt gặp cái nhìn đầy hoài nghi của Trạm Vũ, Quý Hiểu Âu chủ động chìa tay ra với cậu: “Bắt tay cái đi cậu em, chị là Quý Hiểu Âu, là sinh viên khóa 1999 của khoa Hóa trường L, là sư tỷ cùng trường khác khoa với cậu đó.”
Trạm Vũ chớp mắt vài cái, cứ nhìn cô nhưng chẳng đáp lời.
Nghĩ lại bốn năm học hành vất vả, Quý Hiểu Âu không khỏi nhoẻn miệng cười: “Đám con trai các cậu bây giờ cuối tuần còn tham gia ké vũ hội trường R không? Nem rán và bánh đào ở căng tin số 4, chà, ra trường mấy năm mà nhớ lại vẫn thèm rỏ dãi.”
Sự cảnh giác trên gương mặt Trạm Vũ dần biến mất, thay vào đó là nụ cười rất nhẹ, khẽ nắm lấy bàn tay Quý Hiểu Âu cậu gọi cô là: “Sư tỷ.”
Thân phận mới nhanh chóng rút ngắn khoảng cách cả hai, nét mặt Trạm Vũ dần trở nên sinh động hơn, cậu nhìn Quý Hiểu Âu từ trên xuống dưới, lắc lư cái đầu: “Hình như có câu nói chỉ giành bánh mì trường L, đừng đụng đến con gái trường L đúng không? Người như sư tỷ chắc cũng phải là bảo vật cấp quốc gia nhỉ?”
“Dĩ nhiên.” Quý Hiểu Âu khẳng định không một chút khiêm tốn, “Năm đó lớp chị tỷ lệ nam nữ là 9:1, chị là trăng giữa bầy sao đấy, ai gặp cũng thích, sức hấp dẫn không đùa được đâu!”
“Ôi, nguồn tài nguyên của con trai lớp chị thật nghèo nàn đấy.” Cuối cùng Trạm Vũ bật cười, để lộ hàm răng trắng bóc, chiếc nào chiếc nấy đều tăm tắp.
Nhìn cậu, Quý Hiểu Âu không khỏi xao xuyến, mí mắt cũng giật giật.
Năm nay Trạm Vũ hai mươi hai, trạc tuổi cậu em Quý Hiểu Bằng – con trai của chú Quý Hiểu Âu.

Thoạt nhìn ở cậu thiếu đi cái vẻ tinh thần dạt dào của con trai lứa tuổi đó, gương mặt cậu dường như luôn mang theo nhiều tâm sự.

Trước đó cô chưa được thấy một nụ cười thật lòng nào của cậu, bây giờ khi cậu cười thật tươi thế này, Quý Hiểu Âu mới nhận ra vẻ khờ khạo của một chàng trai nhỏ tuổi hơn mình.
“Hỏi cậu một câu,” Quý Hiểu Âu vỗ nhẹ mu bàn tay cậu, cô đã hoàn toàn coi cậu là em trai mình, “Kết quả xét nghiệm khi nãy nói cậu bị ngộ độc thực phẩm do nhiễm khuẩn, hôm nay cậu đã ăn gì thế? Căng tin trường L đâu đến nỗi tồi tệ như vậy.”
Trạm Vũ chau mày suy nghĩ, “Em ăn Sashimi.”
“Thảo nào.” Quý Hiểu Âu chợt vỡ lẽ, “Đến bác sĩ còn thắc mắc nữa là, người ta nói ngộ độc thực phẩm do nhiễm khuẩn vào mùa đông này là chuyện hiếm hoi lắm!”
Vẻ ngượng ngùng hiện rõ trên khuôn mặt Trạm Vũ, cậu không đáp lời.
Quý Hiểu Âu chậc lưỡi: “Sashimi! Thời nay sinh viên đời sống cao nhỉ? Ngày trước bọn chị được ăn một bát mì bò là sang lắm rồi đó.”
Trạm Vũ nhếch môi nói: “Em được mời.”
“À, được mời nên cậu ăn bất chấp hả? Cậu khờ thế!” Quý Hiểu Âu trách mắng không chút khách sáo: “Sức khỏe là của cậu cơ mà.

Có biết lúc cậu ngất đáng sợ thế nào không? Mặt cậu trắng bệch như tờ giấy, cơ thể hoàn toàn không phản ứng, làm tôi sợ đến tăng nhịp tim, huyết áp có khi lên tới 180 đấy!”
Trạm Vũ lẩm bẩm: “Cũng có ăn bao nhiêu đâu.”
“Stop, stop!” Quý Hiểu Âu nói: “Tôi tin cậu có mà đi bằng đầu!”

Thấy tình hình Trạm Vũ đã khá hơn nhiều, Quý Hiểu Âu mới yên tâm.

Nhớ đến chuyện ở cửa hàng, cô liền truyền đạt rõ ràng lời căn dặn của bác sĩ lại cho Trạm Vũ rồi thu dọn đồ đạc chuẩn bị ra về.
Nhưng rốt cuộc cô vẫn không thể liên hệ với người nhà Trạm Vũ.

Chẳng hiểu sao khi hỏi tới bố mẹ, ánh mắt Trạm Vũ lại có vẻ lẩn tránh, bảo buổi tối không có ai ở nhà.

Quý Hiểu Âu cho rằng có lẽ cậu ngại điều gì đó, chẳng hạn như không muốn cho người ngoài biết về gia đình mình, tuy không khỏi phật lòng nhưng cô không giận cậu.

Dù sao cũng chỉ là người dưng nước lã, hơn nữa Trạm Vũ vẫn còn là một đứa trẻ to xác nên cảnh giác một chút cũng là điều dễ hiểu, cũng không phải điều gì quá quắt.
Nhưng tờ biên lai viện phí và tiền thuốc thang lại khiến Trạm Vũ vô cùng lúng túng.

Tiền thuốc cộng với tiền gọi xe cấp cứu, cả khoản ứng trước tiền nằm viện, tổng cộng Quý Hiểu Âu đã trả trước cho cậu 2.800 tệ.

Cậu đã lục hết các túi quần túi áo, tổng cộng mới kiếm được hơn 200 đồng.
“Chị…” Cầm tờ tiền mỏng tang, cậu nhìn Quý Hiểu Âu bằng ánh mắt đầy tội nghiệp.
“Thôi khỏi cần.” Quả thực cặp mắt Trạm Vũ có tính sát thương không nhỏ, trái lại còn khiến Quý Hiểu Âu cảm thấy tội lỗi như bản thân mắc nợ cậu cái gì, “Ngày mai liên lạc được với bố mẹ cậu rồi tính sau, tôi phải đi đây, mai lúc nào rảnh tôi sẽ ghé thăm cậu.

Cậu phải nghe lời bác sĩ, phải uống thuốc đúng giờ, nghỉ ngơi đầy đủ đấy!”
“Vâng.” Trạm Vũ ngoan ngoãn gật đầu, hàng lông mi dày cụp xuống che đi cặp đồng tử đen láy, cũng che đi cả ánh mắt đong đầy tâm trạng của cậu.
Tháng hai Bắc Kinh, tuy đã qua tiết Vũ Thủy nhưng gió đêm vẫn lạnh thấu tâm can.

Khi Quý Hiểu Âu lê những bước chân rệu rã về tới nhà, đồng hồ đã điểm mười một giờ.
Ấy thế mà hai vị phụ huynh nhà họ Quý xưa nay đã quen ngủ sớm lúc này vẫn ngồi ngoài phòng khách xem tivi, rõ là đang đợi cô.

Thấy con gái bước vào nhà, bà Quý thở phào nhẹ nhõm nhưng vẫn ngồi bất động tại chỗ, vờ như không thấy cô.

Ông Quý thương con, chẳng màng tới ánh mắt không vui của bà xã, ông vẫn cứ vào bếp bưng bữa tối đã được hâm nóng ra ngoài Quý Hiểu Âu.
“Mau lên, tranh thủ còn nóng con ăn ngay đi.” Ông gọi con gái: “Có món thịt viên hầm con thích đấy.”
Vừa nghe thấy ba chữ thịt viên hầm, Quý Hiểu Âu liền quẳng luôn áo khoác, nhào thẳng tới bàn ăn.
Đây là bữa cơm thứ hai của cô hôm nay, cái bụng réo vang khiến Quý Hiểu Âu gắp thức ăn lia lịa.

Dáng vẻ ăn ngấu nghiến như bị bỏ đói lâu ngày của cô không khỏi khơi lên nỗi lòng bà Quý, vẻ điềm tĩnh giả vờ cũng tự động không cánh mà bay.
“Con tự nhìn mình đi!” Xưa nay cách nói chuyện của bà luôn thẳng thắn như vậy, “Có con gái nhà nào như con, nửa đêm nửa hôm mới mò về đến nhà không? Không có cuối tuần, không có lễ tết lại chẳng thấy kiếm được bao nhiêu tiền.

Ngày xưa nếu con nghe lời thi vào đại học Y thì làm sao rơi vào tình cảnh ngày hôm nay? Thậm chí mẹ đã giúp con nói chuyện với cán bộ tuyển sinh trường Y rồi, thế mà con lại tự tung tự tác, quyết định theo ý mình cơ! Có lần nào con không nghe lời bố mẹ mà có kết quả tốt chứ?”
Bố mẹ Quý Hiểu Âu đều là bác sĩ.

Mẹ cô, bà Triệu Á Mẫn, là bác sĩ phó chủ nhiệm khoa Đông y.


Còn ông Quý Triệu Lâm bố cô là chủ nhiệm khoa Mắt.

Có thể so với khoa nội, khoa ngoại, khoa Đông y và khoa Mắt không có nhiều áp lực bằng nên từ nhỏ ông Quý đã mong con gái có thể nối nghiệp bố mẹ, trở thành lương y được người người kính trọng.
Thế nhưng khi ấy Quý Hiểu Âu lại đang ở tuổi nổi loạn, chẳng những không hiểu cho nỗi lòng cha mẹ, cô còn rất thích làm trái ý phụ huynh.

Cấp hai không thích qua lại với bạn bè đồng trang lứa, cô chỉ thích kết bạn với “dân xã hội”, câu “gần mực thì đen” rất đúng trong trường hợp này, từ việc ăn mặc, kiểu tóc đến cách nói chuyện của cô đều khiến bà Triệu Á Mẫn ghét cay ghét đắng, Quý Hiểu Âu bị mẹ mắng là “đồ con gái không ra gì”.

Cô bắt đầu yêu sớm từ lớp 10, bạn trai cô khi đó là một nam sinh nổi tiếng nghịch ngợm.

Nhà trường yêu cầu gia đình phải quản lý con cái chặt chẽ hơn, Quý Hiểu Âu sau khi ăn vài cái tát của mẹ đùng đùng bỏ nhà đi, trốn vé tàu lưu lạc tận đến Trịnh Châu.

May mắn thay, cô gặp một người bảo vệ tốt bụng, đã áp tải cô từ Trịnh Châu về Bắc Kinh, tận tay giao cho bố mẹ.

Bỗng dưng, tới học kỳ hai lớp 11 cô lại biết quay đầu, tự nhiên chăm chỉ học hành, tổng điểm thi đại học miễn cưỡng cũng đủ vào một số trường đại học.
Bố mẹ cô rất vui, nhưng không hề hay biết rằng động lực học hành của Quý Hiểu Âu lại chính là đối tượng mà cô yêu sớm hồi lớp 10.

Cặp đôi trẻ hứa hẹn cùng thi vào trường đại học L nên Quý Hiểu Âu đã giấu bố mẹ thay đổi nguyện vọng một từ đại học Y sang khoa công nghệ thông tin trường L.

Song điểm số không cao lắm nên Quý Hiểu Âu không đủ điểm trúng tuyển khoa công nghệ thông tin với tỷ lệ chọi rất cao, cuối cùng dòng chữ “có thể học ngành bào chế thuốc” trên tờ đăng ký nguyện vọng đã đưa cô vào khoa Hóa học trường L.
Về mối tình kia, cũng như đa số tình yêu học trò, mối tình của cô cũng chết yểu vì vô vàn lý do, tan thành mây khói bay đi theo gió nhưng nó cũng để lại cho cô một di chứng không nhỏ, đó là sự khó khăn trong công cuộc tìm kiếm việc làm sau tốt nghiệp.

Mặc dù rất ít con gái theo ngành Hóa học nhưng đa phần các công ty cũng chẳng muốn tuyển nữ giới, trong ba năm đi làm ngắn ngủi của Quý Hiểu Âu, cô từng bán mĩ phẩm, làm lễ tân, cũng từng là thư ký giám đốc, suy cho cùng đã hoàn toàn đoạn tuyệt với hai chữ “hóa chất”.
Thế nhưng chuyện con gái không vào trường đại học Y vẫn luôn là nỗi nuối tiếc lớn của bà Quý trong giai đoạn trước 25 tuổi của Quý Hiểu Âu.

Còn sau khi cô đã bước qua tuổi 25, điều đó được chuyển thành nỗi lo con gái sẽ chết già ở nhà.
Đến khi cái miệng đang miệt mài nhai thức ăn khó lắm mới được rảnh rỗi, Quý Hiểu Âu mới cự lại, nói chuyên ngành Hóa chất giúp ích rất nhiều cho thẩm mỹ viện hiện tại.

Và thế là, bà Quý lại nghĩ tới một điều đáng tiếc khác.
“Đừng nhắc về thẩm mỹ viện đó với mẹ!” Bà bỏ qua tập phim truyền hình mới xem được một nửa, ngồi xuống trước mặt Quý Hiểu Âu càm ràm: “Chưa nói đến chuyện tiền bạc, bố mẹ cũng chẳng đợi con nuôi gia đình nhưng con tự xem lại mình đi, hàng ngày toàn tiếp xúc với những loại người nào chứ?”
“Ý mẹ là loại người nào?” Quý Hiểu Âu để nhẹ đôi đũa xuống, ngọn lửa le lói trong lòng bắt đầu bốc khói ngun ngút.
Bà Quý đếm trên đầu ngón tay, “Này nhé, mấy bà nội trợ thất nghiệp, bồ nhí của mấy lão sếp già, à, cả mấy cô phục vụ từ A đến Z trong nhà hàng nữa.

Như thế con còn ngại chưa đủ à?”
“Vậy thì sao chứ? Mở cửa hàng kinh doanh, con cần gì phải quan tâm nghề nghiệp của người ta, miễn không thiếu nợ con là được.”
“Đáng xấu hổ! Con biết không hả?” Bà Quý rất nóng tính, trên đời bà không thể chấp nhận người khác trái ý mình, giọng lập tức cao vút lên hẳn một quãng tám: “Đàn ông tử tế có điều kiện một chút biết con làm nghề này, còn ai dám ngó ngàng nữa? Con định làm bà cô ế ở nhà cả đời chắc?”
“Con làm sao? Con làm sao chứ?” Quý Hiểu Âu không vừa, cũng cao giọng nói: “Có ai như mẹ không? Có ai như mẹ không? Coi nhiếc móc con gái làm niềm vui, có phải sau mỗi lần nhiếc móc con mẹ hả hê lắm không?” Nói đến đây, giọng Quý Hiểu Âu nghẹn lại: “Ai cần ở nhà mẹ chứ? Mẹ đừng quên con có nhà riêng, ngày mai con sẽ chuyển đi ngay!”

Cảm thấy nếu mình không đứng ra hòa giải, cuộc chiến của hai mẹ con sẽ càng dữ dội hơn, ông Quý vội đứng dậy, ôm vai vợ nhắm đánh lạc hướng bà: “Nào nào, phim chiếu tiếp rồi kìa…”
Bà Quý bị cô ấn xuống sofa, giọng vẫn vô cùng gay gắt: “Tôi nói nó cái gì nó cũng chẳng thèm nghe vào đầu, kể cả cái cậu Lâm Hải Bằng ngày trước, tôi đã bảo rồi mà.

Người đâu mà đỏm dáng, nhìn qua là biết chẳng được tích sự gì, nó một mực không nghe lời, kết quả thì sao? Con cãi cha mẹ trăm đường con hư…”
Bà chưa nói hết câu, một tiếng rầm đã vang vọng khắp không gian, Quý Hiểu Âu đóng cửa phòng mình thật mạnh, sau đó là tiếng khóa cửa vang lên lạch cạch.
Bà Quý giận quá, đuổi theo cô mà mắng: “Mày làm gì mạnh tay vậy, hỏng cửa tao lại mất tiền sửa, chẳng lẽ đây không phải nhà mày chắc?”
Quý Hiểu Âu bịt tai nằm sấp xuống giường, thế nhưng giọng nói gay gắt của bà Triệu Á Mẫn vẫn xuyên qua cửa phòng, lọt vào tai cô không sót một chữ.

Tuy vậy, đối tượng để bà trút giận lúc này đã chuyển sang ông Quý, bà dí tay vào trán ông: “Ngoài tác dụng hòa giải, ông còn biết làm gì? Cả đời tôi hối hận nhất là đã theo ông tới Tây Tạng, để Hiểu Âu lại cho bà mẹ sùng đạo của ông.

Ngày nào Hiểu Âu cũng qua lại với mấy bà lão rảnh rỗi đó, con bé học hành được gì chứ? Con gái nhà người ta được con trai xếp hàng theo đuổi trong khi con nhà này cứ bị lừa dối biết bao lần.

Người ta hỏi tôi còn không dám trả lời, sợ không có lỗ nẻ mà chui xuống!”
Ông Quý Triệu Lâm cất giọng biện bạch nhưng chẳng mảy may có sức nặng: “Ơ… Tôi vẫn thấy con gái mình rất ổn mà.”
Bản tính ông Quý Triệu Lâm là người nhu nhược, khí thế xưa nay vẫn kém vợ ba phần.

Hồi còn trẻ, vì sự nghiệp, ông phải xa nhà tới công tác ở Tây Tạng xa xôi, để lại con gái bé bỏng cho bà nội chăm bẵm.

Việc này khiến tình cảm của bố mẹ với con gái không khỏi lãnh đạm, còn khiến bà Triệu Á Mẫn lỡ mất một cơ hội tiến tu quan trọng, bởi vậy đến nay bà vẫn chỉ là một bác sĩ phó khoa mà thôi.

Ông đã bị vợ đay nghiến suốt hai mươi năm qua vì chuyện này.

Bản thân ông cũng biết mình đuối lý nên cứ hễ bà nhắc tới chuyện ngày xưa là ông chỉ biết ù ù cạc cạc, hoặc im lặng cho xong.
Quý Hiểu Âu bật dậy khỏi giường, cầm cuốn sách ném thẳng vào cánh cửa.

Tiếng nói của bà Triệu Á Mẫn chỉ im lặng được một lát, rồi lại bắt đầu cất lên.

Quý Hiểu Âu nóng nảy đi loanh quanh mấy vòng trong phòng, cuối cùng cô quỳ xuống trước chiếc bàn học nhỏ trạm trổ hoa văn kiểu Trung Quốc bên cửa sổ, chắp tay khe khẽ cầu nguyện: “Thần ơi, nguyện cho tất cả vinh quang, quyền hành và đất nước đều thuộc về Người, xin hãy ban cho con sự bình tĩnh để đối diện với tất cả nỗi đau và những điều không vừa ý.

Cảm ơn sự bác ái, khoan dung và giúp đỡ của Người, A-men!”
Chiếc bàn bên cửa sổ này đã cũ đến mức nước sơn trên mặt bàn bạc phếch vì thời gian, trên đó là cây thánh giá mạ bạc và một cuốn “Thánh kinh” cũ sờn, hoàn toàn không hợp với kiểu bài trí kiểu Hàn Quốc rất đỗi ấm áp của căn phòng.

Nhưng đó cũng chính là kỷ vật duy nhất bà nội cô để lại.

Trong năm năm bố mẹ cô làm việc ở Tây Tạng, Quý Hiểu Âu đều sống cùng bà nội, mãi đến năm lớp hai bố mẹ trở về Bắc Kinh, cô mới rời khỏi nhà bà, chuyển về nhà mình.

Vết dao khắc trên chân bàn, dấu vết màu trắng do tách trà nóng để lại trên mặt bàn, những nét bút mực vẽ lung tung trong cuốn Thánh kinh là một phần trong vô vàn ký ức thời thơ ấu của cô.
Đêm khuya nằm mơ, thỉnh thoảng Quý Hiểu Âu phảng phất như nghe thấy cả tiếng lẩm nhẩm đọc sách xen cả tiếng ho hắng của bà nội.

Âm thanh đó khiến cô vừa thấy ấm áp, vừa thấy đau khổ, bởi vậy tuy bà đã mất được bốn năm, cô vẫn không nỡ vứt chiếc bàn này đi… Cô sợ một ngày sẽ không thể tìm được bóng dáng xưa kia của bà nội nữa.
Vì câu chuyện không mấy vui vẻ buổi tối nên đêm đó Quý Hiểu Âu đã mơ một giấc mơ, một giấc mơ rất không vui.
Trong mơ cô quay về một ngày nào đó của ba năm về trước.

Sau khi kết thúc bài thi của khóa học đào tạo chuyên viên thẩm mỹ cao cấp, trong khi Quý Hiểu Âu vui vẻ bay từ Quảng Châu về Bắc Kinh thì phải buộc đón nhận lời chia tay rất kiên định của bạn trai.
Ở tuổi hai mươi ba, sau khi vừa tốt nghiệp đại học, Quý Hiểu Âu từng có một người bạn trai chính thức, anh ta tên Lâm Hải Bằng, lớn hơn cô bốn tuổi.


Hai người quen nhau khi đi thang cuốn ở cửa hàng bách hóa Thái Bình Dương.

Khi đó, cách ăn mặc và thần thái của Lâm Hải Bằng vẫn chỉ như một cậu sinh viên đơn thuần, đỏ mặt thổ lộ với Quý Hiểu Âu rằng anh ta đã đi theo cô rất lâu rồi, anh ta rất thích sự mộc mạc và trong sáng của cô, hỏi Quý Hiểu Âu có thể kết bạn với mình không.

Quý Hiểu Âu rất thích sự bắt đầu này, cảm thấy nó thật sáng tạo và không kém phần lãng mạn, liền nhận lời mời đi ăn Mc Donald của Lâm Hải Bằng.

Lâm là người Giang Tô, sự tinh tế và dịu dàng của người miền Nam vừa vặn xoa dịu trái tim bị tổn thương khi đó của cô.

Hồi đó Quý Hiểu Âu còn trẻ, tính cách bốc đồng trong khi bà Quý lại ở giai đoạn cuối của thời tiền mãn kinh nên chuyện hai mẹ con cãi cọ gần như xảy ra như cơm bữa ở nhà Quý.

Nhiều lần Quý Hiểu Âu cả giận, thầm thề chỉ cần có người hỏi cưới, cô sẽ nhận lời ngay để khỏi phải chạm mặt hàng ngày với mẹ.

Mặc dù bà Triệu Á Mẫn liên tục dội nước lạnh cho cô, bà chê Lâm Hải Bằng là dân nhập cư Bắc Kinh, không có chỗ dựa, lại chẳng có nhà có xe nhưng Quý Hiểu Âu khi đó đã từng thật lòng muốn được gả cho anh ta.

Không ngờ sau nửa năm qua lại, Lâm Hải Bằng lại đề nghị chia tay.
Về nguyên nhân chia tay, Lâm Hải Bằng sau khi tốt nghiệp liền thi đỗ làm nhân viên công vụ trong một bộ ngành nào đó, anh ta từng luôn miệng nói bản thân rất thích tính cách thẳng thắn của con gái Bắc Kinh.

Thế nhưng khi vừa được thăng chức làm thành viên ban chủ nhiệm, anh ta đột nhiên lại bắt đầu chê bai bối cảnh gia đình Quý Hiểu Âu không đủ mạnh, không giúp gì được cho con đường thăng quan tiến chức của mình.

Đúng lúc anh ta lọt vào mắt xanh của một vị phu nhân cán bộ, muốn gả cô con gái lớn hơn hai tuổi cho anh ta, vậy nên anh ta đã quả quyết đòi chia tay với Quý Hiểu Âu.

Dĩ nhiên, chuyện này do chính Quý Hiểu Âu âm thầm điều tra được.

Thực ra hồi đó anh ta nói lời chia tay cô bằng thái độ vô cùng khéo léo và ướt át.

Anh ta nói điều kiện của cô không tồi, gia đình cơ bản, bản thân lại có nhà riêng, công việc cũng kiếm ra tiền, ngoại hình ưa nhìn nên anh ta tự thấy không xứng với cô, không muốn để cô lỡ dở.
Quý Hiểu Âu cả giận đá đổ bàn trà trước mặt, chỉ vào mũi Lâm Hải Bằng mà nói: “Anh có còn là đàn ông không? Nói thẳng ra thì chết ai à? Mẹ kiếp, chẳng phải anh được thăng lên một chức nên cảm thấy bản thân đã trở thành một nhân vật vĩ đại rồi mới không muốn chịu khổ với tôi nữa! Không xứng với tôi? Mấy tháng trước thì sao? Chắc hồi đó anh xứng với tôi!”
Giẫm lên những mảnh vụn thủy tinh la liệt dưới đất, cô chạy ra khỏi phòng ký túc của bạn trai.
“Hiểu Âu, Hiểu Âu, em nghe anh nói đã…” Bạn trai cũ đuổi theo cô.
Quý Hiểu Âu đã quên những lời anh ta biện bạch.

Nhưng trong giấc mơ hôm nay, cô cảm thấy vô cùng hả hê vì đã làm được điều mà ngày trước tuy rất muốn nhưng không làm được, đó là vung tay thật cao rồi tặng cho đối phương một cái tát trời giáng.

Âm thanh của cú tát vang dội, lòng rất hả hê nhưng lại khiến cô giật mình, giật mình tỉnh giấc.
Nhớ lại cảnh tượng trong mơ, Quý Hiểu Âu gối lên cánh tay nằm ngẩn ngơ hồi lâu.

Ba năm qua chưa bao giờ cô dùng chuyện này làm khó bản thân, chỉ coi như mình hồ đồ nhìn lầm người mà thôi.

Có ai trong đời không yêu phải một, hai kẻ tệ bạc? Và cũng có ai cả đời không làm người khác buồn lòng bao giờ? Chia tay là chia tay, chẳng qua chỉ là kết thúc một mối tình, cô sẽ không bao giờ nửa đêm vừa khóc vừa đau khổ dằn vặt bản thân, hỏi “tại sao lại như vậy?”.

May thay, hồi đó cô còn trẻ, tốc độ sản sinh tế bào rất nhanh nên chẳng mấy chốc vết thương lòng cũng khép miệng, chẳng để lại vết tích đáng buồn nào.

Song, cô chẳng ngờ rằng đã ba năm sau, cô vẫn còn nhớ như in dáng vẻ của Lâm Hải Bằng..