Tôi đã nghe nói tuần lễ để cô geisha tập sự chuẩn bị làm lễ nhập môn giống như thời gian khi con sâu biến thành con bướm. Lời ví von nghe thật hay nhưng tôi không hiểu tại sao người ta lại ví như thế. Bởi con sâu bướm chỉ việc làm kén rồi ngủ một giấc trong kén, còn tôi thì trải qua một tuần mệt bở hơi tai. Đầu tiên, tôi phải làm tóc theo kiểu nàng geisha tập sự, kiểu “trái đào nứt”. Vào thời ấy ở Gion có nhiều thợ làm tóc, Mameha thường làm tóc tại một nơi rất đông khách. Tôi phải đợi gần hai giờ mới đến phiên mình. Mùi tóc bẩn tràn ngập cả phòng. Kiểu tóc lộng lẫy của giới geisha lúc bấy giờ quá cầu kỳ và tốn kém đến nỗi không ai đi làm một tuần quá một lần. Vì thế tóc của họ cũng hôi ngay cả khi họ rẩy nước hoa lên tóc.
Cuối cùng đến phiên tôi, đầu tiên người thợ làm tóc để đầu tôi tựa lên cái bồn gội lớn, với tư thế đó, tôi cảm thấy như ông ta sắp sửa chặt đầu tôi. Rồi ông ta xối nước ấm và xát xà phòng lên đầu tôi. Từ “xát” chưa đủ để miêu tả hết công việc của ông ta, vì mấy ngón tay của ông cào cấu vào da đầu tôi như người nông dân cào đất ruộng của họ vậy. Nhìn lại thời ấy, tôi hiểu lý do tại sao. Gàu trên đầu là vấn đề khó khăn nhất của người geisha, không có gì làm cho họ mất vẻ hấp dẫn bằng, và không có gì làm ái tóc của họ dơ bẩn bằng. Người thợ làm tóc đã có lý do chính đáng để làm thế, nhưng sau một lát, đầu tôi ê ẩm đến phát khóc. Nhưng ông thợ vẫn nói:
- Nếu cô thấy muốn khóc thì cứ khóc, cô hiểu lý do tại sao tôi để đầu cô lên bồn gội rồi.
Tôi nghĩ đây là lời nói đùa rất ý nhị vì sau khi nói xong, ông ta cười ha hả.
Khi đã gội đầu xong, ông ta bảo tôi ngồi lên mép chiếu, lấy cái lược gỗ chải lên tóc tôi cho đến khi cổ tôi đau nhừ vì phải ghì lại mỗi khi ông ta kéo lược trên tóc tôi. Cuối cùng, khi thấy tóc thẳng thớm rồi, ông ta chải dầu hoa trà lên tóc, làm ái tóc thơm ngát. Tôi sợ chưa hết các giai đoạn gay cấn, và quả vậy, ông ta lấy thỏi sáp ra. Mặc dù tóc đã chải dầu hoa trà thơm lừng, nhưng khi thoa sáp vào tóc, ông ta phải dùng thanh sắt nóng cho sáp mềm ra. Quả con người là con vật thông minh, cho nên người thiếu nữ mới chịu ngồi yên để cho người khác chải sáp vào tóc mà chỉ biết khóc lặng lẽ thôi. Nếu người ta làm thế ột con chó, thế nào nó cũng cắn cho toạc tay ra.
Khi tóc đã thoa sáp đều rồi, người thợ làm tóc chải tóc phía trước ra sau, rồi chải cả đầu tóc lên thành một cái núi lớn, trông như cái gối để găm kim trên đỉnh đầu. Khi nhìn từ phía sau, cái gối găm kim này có đường nứt ở giữa như bị chẻ ra làm hai, vì thế mà kiểu tóc này có tên là “trái đào nứt”.
Mặc dù tôi đã để kiểu tóc "trái đào nứt" này nhiều năm, nhưng vẫn còn một thứ tôi không biết, mãi cho đến một thời gian sau mới có người cho tôi hay. Đó là cái nùi – mà tôi gọi là cái gối găm kim – được thành hình bằng cách vấn tóc quanh một miếng vải. Ở phía sau nùi nơi có chỗ nứt, người ta thấy miếng vải lòi ra. Miếng vải có thể có hình vẽ hay màu sắc, nhưng của người geisha tập sự thường là màu đỏ, ít ra cũng phải một thời gian sau mới thay đổi. Một buổi tôi có người đàn ông nói với tôi:

- Hầu hết các cô gái còn thơ ngây không biết kiểu tóc “trái đào nứt” có ý nghĩa khêu gợi như thế nào đâu. Cô hãy tưởng tượng có người đàn ông đi sau lưng cô geisha, những ý nghĩ tục tĩu nảy ra trong óc anh ta, khiến anh ta muốn thực hiện những ý nghĩ đó. Rồi anh ta thấy mái tóc “trái đào nứt” trên đầu cô ta, mái tóc có một miếng vải đủ lớn nằm trong một cái khe…cô nghĩ đến cái gì?
À, tôi không nghĩ đến cái gì hết, tôi nói với ông ta.
- Cô không sử dụng trí tưởng tượng à?
Một lát sau tôi hiểu ra, đỏ mặt e thẹn, thấy thế ông ta cười khà.
Trên đường trở về nhà, tôi quên phắt da đầu đau nhức như đất sét quên chuyện người thợ dùng dụng cụ để nắn nó thành đồ gốm sứ. Mỗi lần tôi nhìn bóng tôi trong tủ kính ở các tiệm hàng, tôi cảm thấy tôi trở thành một người rất nghiêm trang, không còn bé bỏng nữa mà đã trở thành thiếu nữ. Khi tôi về đến nhà kỹ nữ, bà Dì khen lấy khen để kiểu tóc của tôi. Ngay cả Bí Ngô cũng không chịu được, cô đến nhìn tôi một lần, ánh mắt khâm phục, nhưng chắc Hatsumono sẽ giận lắm nếu cô ta biết được. Còn anh có biết phản ứng của Mẹ ra sao không? Bà nhón chân để nhìn cho kỹ - vì tôi đã cao hơn bà – rồi phàn nàn rằng có lẽ tôi nên đến tiệm làm tóc của Hatsumono hơn là tiệm của Mameha.
Cô geisha tập sự nào mới đầu cũng rất hãnh diện vì mái tóc của mình, nhưng ba bốn ngày sau là họ bắt đầu đâm ghét. Vì chắc anh đã biết, khi làm tóc xong về nhà, cô ta mệt phờ người, sẽ nằm lăn ra ngủ khì, kê đầu lên gối, thế nào đầu tóc cũng xẹp xuống. Khi thức dậy, cô ta phải đến tiệm làm tóc lại ngay. Cho nên cô geisha tập sự phải học cách để giữ mái tóc cho khỏi hư. Cô ta sẽ không dùng cái gối bình thường nữa, mà dùng cái gối đặc biệt gọi là Takamakura, loại gối tôi đã nói cho anh biết rồi. Cái gối này có hình như cái nôi để cho ta tựa gáy lên đấy. Mặc dù trên gối có chêm một lớp vỏ trấu, nhưng cổ vẫn đau nhừ như kê trên đá. Cô gái nằm ngủ, mái tóc sẽ hở lên trên, nhưng khi thức dậy, có thể cô ta di chuyển đầu sao đó khiến ái tóc chạm vào chiếu khiến nó xẹp đi. Trường hợp của tôi, bà Dì đã giúp tôi tránh khỏi tình trạng này bằng cách để một cái khay bột gạo dưới mái tóc của tôi, khi ngủ mà đầu tôi gục ra sau thì tóc sẽ chạm lên bột gạo, bột dính vào sáp sẽ làm hư mái tóc. Cho nên tôi phải cố giữ đầu cao lên khi ngủ. Tôi đã thấy cảnh Bí Ngô phải trải qua thử thách này. Bây giờ đến phiên tôi. Mỗi khi thức dậy vào buổi sáng thấy tóc bị hư, tôi phải đến xếp hàng ở tiệm làm tóc đợi đến phiên bị hành hạ.
Chiều nào trong tuần chuẩn bị làm lễ nhập môn của tôi, bà Dì cũng mặc cho tôi áo quần đủ bộ của một geisha tập sự và tập cho tôi đi lui đi tới trên hành lang đất trong nhà kỹ nữ để tôi quen dần. Mới đầu rất khó đi, tôi cứ sợ ngã nhào ra phía sau. Thiếu nữ thường mặc áo có nhiều trang trí hơn người già, nghĩa là màu sắc sặc sỡ hơn, vải màu mè hơn, nhưng chiếc khăn quàng bụng cũng dài hơn. Người phụ nữ đứng tuổi thắt khăn quành phía sau theo kiểu mà chúng tôi gọi là “nút trống”, vì cái nút có hình một cái hộp nhỏ gọn gàng, cái nút này không cần nhiều vải lắm. Nhưng các cô còn trẻ vào khoảng hai mươi, họ quàng dải thắt lưng theo kiểu văn nghệ hơn. Trong trường hợp nàng geisha tập sự, kiểu này là kiểu thời trang hấp dẫn nhất thường được gọi là dải darari – “dải lủng lẳng” – được bím thành cái nút cao lên tận đầu xương bả vai, và đầu mút dải lủng lẳng gần phết đất. Áo kimono không cần phải có màu sáng, nhưng dải thắt lưng hầu như luôn luôn có màu sắc tươi sáng. Khi người geisha tập sự đi trước mắt anh trên đường phố, anh không để ý đến cái áo kimono mà chú ý đến dải thắt lưng lủng lẳng óng ánh sáng – với một phần cái kimono ở trên hai vai và hai bên vạt áo. Để có được như thế này, dải thắt lưng phải dài, dài bằng chiều dài cả căn phòng. Nhưng không phải chiều dài của dải thắt lưng làm cho cô geisha khó mặc, mà chính trọng lượng mớii làm cho cô ta khó khăn, vì nó được làm bằng gấm thêu nặng nề.

Ngoài dải thắt lưng nặng nề, cái áo kimono cũng nặng vì hay tay áo quá rộng. Khi người mặc dang hai tay ra, tay áo thụng xuống làm thành hai cái túi. Cái túi thụng này chúng tôi gọi là furi, người geisha tập sự phải mặc áo tay thụng này một thời gian. Nếu không cẩn thận, cô ta có thể để tay áo lên mặt đất, và khi múa cô ta rất dễ dẫm chân lên nó, nên cô ta phải nhớ cẩn thận vấn chúng lên nhiều lần để khỏi vướng.
Nhiều năm sau, nhà khoa học danh tiếng của trường đại học Kyoto, trong một đêm quá say đã nói về bộ y phục của cô geisha tập sự như thế này “Loài khỉ ở Trung Phi được xem là loài linh trưởng điển hình nhất, nhưng tôi nghĩ cô geisha tập sự ở Gion có lẽ là loại linh trưởng có màu sắc tươi sáng hơn hết!”
Cuối cùng ngày Mameha và tôi làm lễ kết tình chị em đã đến. Tôi tắm rửa từ sớm, mặc quần áo. Bà Dì giúp tôi hóa trang và sửa sang mái tóc. Vì sáp và chất hóa trang phủ lên da tôi, tôi thấy mặt tôi chẳng còn cảm giác gì hết. Mỗi lần tôi sờ vào má, tôi chỉ cảm thấy nằng nặng nơi ngón tay. Tôi làm thế nhiều lần quá khiến bà Dì cứ phải làm hóa trang lại. Sau khi nhìn vào gương, tôi thấy một người hiện ra rất xa lạ. Tôi thấy trong gương là một cô gái khác đang nhìn tôi. Cô ta đang điểm trang tuyệt mỹ của một geisha. Đôi môi đỏ tươi trên khuôn mặt trắng toát, hai má phớt hồng. Tóc trang điểm bằng hoa lụa và nữ trang có hình chùm lúa. Cô ta mặc kimono đen có huy hiệu của nhà kỹ nữ Nitta, từ dưới lai áo một con rồng thêu uốn mình vươn lên tận giữa hai đùi chân. Cái bờm thêu bằng chỉ có màu đỏ rất tươi, móng và răng của nó màu bạc và mắt màu vàng, vàng thật. Không làm sao tôi ngăn được nước mắt khỏi trào ra, tôi phải nhìn lên trần nhà để nước mắt khỏi trào xuống má. Trước khi ra khỏi nhà, tôi lấy cái khăn của ông Chủ tịch cho, nhét vào dưới dải thắt lưng để cầu may.
Bà Dì đi theo tôi đến tận nhà Mameha, tôi bày tỏ lòng biết ơn cô ấy, xin hứa sẽ kính trọng cô ấy. Rồi cả ba chúng tôi đến đền thờ Gion, ở đây Mameha và tôi vỗ tay xin cáo trước thần linh là chúng tôi sắp làm lễ kết tình chị em. Tôi cầu nguyện thần linh gia hộ cho chúng tôi rồi tôi nhắm mắt, cám ơn thần linh đã ban cho tôi điều tôi ước vọng từ ba năm nay, đó là trở thành geisha.
Lễ kết tình chị em được tở chức tại phòng trà Ichiriki, có lẽ đây là phòng trà nổi tiếng nhất tại Nhật. Nổi tiếng tại vì ở đây có một võ sĩ đạo danh tiếng ẩn náu vào những năm đầu thập niên 70. Hầu hết các phòng trà ở Gion đều nằm khuất sau mặt đường, ngoại trừ cổng vào đơn sơ, nhưng phòng trà Ichiriki nằm ngay mặt tiền, nó tọa lạc trên một góc đường đông đúc ở đại lộ Shijo, có tường bao quanh sơn màu hồng nhạt, với mái ngói che tường. Nơi này trông giống một lâu đài.
Đến họp mặt với chúng tôi có hai người em út của Mameha và bà Mẹ nữa. Khi chúng tôi gặp nhau ở vườn ngoài, một người hầu dẫn chúng tôi vào tiền sảnh rồi đi theo một hành lang thật đẹp chạy ngoằn ngoèo dẫn đến một căn phòng nhỏ trải thảm nằm phía sau nhà hàng. Chưa bao giờ tôi thấy đồ đạc quanh phòng sang trọng và đẹp như thế này. Đồ đạc bằng gỗ bóng láng, tường trát vữa láng mịn. Phòng ngát mùi thơm của phấn kuroyaki – một lọai phấn thơm làm từ gỗ thơm xay nhỏ có màu xám. Đây là lọai phấn thơm cổ truyền, ngay cả Mameha là người geisha có đầu óc bảo thủ cũng ưa loại nước hoa của Tây phương hơn. Nhưng nhà hàng Ichiriki vẫn thích lọai hương thơm kuroyaki, loại mùi hương đã được nhiều thế hệ geisha xử dụng. Ngay cả tôi bây giờ cũng còn giữ lại một ít trong cái chai gỗ, mỗi khi ngửi đến, tôi lại nhớ tới ngày hôm ấy.

Buổi lễ có bà chủ phòng trà Ichiriki đến dự, bà ta chỉ ở khoảng 10 phút. Một chị hầu mang đến một cái khay đựng nhiều tách sake, Mameha và tôi cùng uống chung. Tôi uống 3 hớp ở một tách rồi đưa cho Mameha, cô ấy uống ba hớp. Chúng tôi tiếp tục như vậy với ba tách rựơu, thế là xong. Kể từ khi ấy, tôi không còn là Chiyo nữa, tôi là nàng geisha tập sự có tên là Sayuri. Trong tháng đầu học nghề, nàng geisha trẻ này được xem là người “thực tập”, không được trình diễn múa hay giải trí với khách mà không có người chị cả, và chỉ làm việc ít thôi, còn thì đều dùng để quan sát và học hỏi. Riêng cái tên Sayuri của tôi, Mameha đã hội ý với người thầy bói khá lâu mới tìm ra được. Âm thanh của cái tên không thành vấn đề, mà ý nghĩa của nó mới quan trọng, cũng như các nét viết của cái tên – vì các nét viết của cái tên này mới đáng kể. Từ “Sa” trong tên tôi có nghĩa là “cùng nhau”, “Yu” có nghĩa là cung Dậu – cung này để quân bình ngũ hành trong người tôi và “Ri” có nghĩa là “hiểu biết” . Ông thầy bói đã tìm ra cái tên sao cho dung hòa với tên của Mameha, nhưng không có tên nào tốt có thể mang lại may mắn cho tôi được.
Tôi nghĩ Sayuri là một tên đẹp, nhưng cái tên cho tôi cảm giác kỳ lạ là con bé Chiyo không còn nữa. Sau khi làm lễ xong, chúng tôi vào phòng khác để ăn “Cơm đỏ”, cơm nấu gạo trộn đậu đỏ. Tôi xúc cơm ăn mà lòng không cảm thấy bất ổn, không mấy vui. Bà chủ phòng trà hỏi tôi một câu, khi nghe bà gọi tôi là “Sayuri”, tôi nhận ra có cái gì đấy làm cho tôi hoang mang bối rối. Tôi cảm thấy con bé có tên Chiyo từng chạy chân không từ hồ về nhà ngà say không còn nữa. Thay vào đó là cô gái có tên Sayuri với khuôn mặt trắng toát và đôi môi màu đỏ.
Mameha đã có kế hoạch chiều hôm đó dẫn tôi đi khắp Gion để giới thiệu với các bà chủ phòng trà và chủ nhà dạy kỹ nữ mà cô ấy có liên hệ làm ăn quen biết. Nhưng khi ăn trưa xong, cô ấy không dẫn tôi đi mà dẫn tôi vào một căn phòng của nhà hàng Ichiriki và bảo tôi ngồi xuống. Dĩ nhiên người geisha không ngồi trong khi mặc kimono, cái thế mà chúng tôi gọi là ngồi có lẽ những người khác gọi là quỳ. Khi tôi ngồi xuống, cô ấy nhăn mặt bảo tôi ngồi lại. Cái áo cồng kềnh khiến tôi phải đứng lên ngồi xuống nhiều lần mới đúng được quy cách. Mameha đưa tôi một thứ trang sức nhỏ có hình quả bầu, và chỉ cho tôi cách đeo nữ trang vào thắt lưng cho nó lủng lẳng. Trái bầu nhỏ, nhẹ khiến cô geisha phải chú ý đến thân hình nặng nề của mình, nhiều cô nhờ vào thứ này giữ ình khỏi bị té xuống.
Mameha nói chuyện với tôi một lát, rồi khi chúng tôi sắp sửa ra đi, cô ấy bảo tôi rót cho cô ấy một tách trà. Bình trà hết nước, nhưng cô bảo cứ giả làm như rót trà thật. Cô ấy muốn nhìn cách tôi giữ tay áo cho khỏi vướng ra sao khi rót trà. Tôi tin tôi biết cách và cố sức làm, nhưng Mameha tỏ ra không hài lòng cách làm của tôi.
- Cô rót tách của ai trước tiên? – cô ấy hỏi.
- Của chị! – tôi đáp.
- Trời ơi! Em không cần quan tâm đến chị, em cứ xem chị là ai đấy, chị là đàn ông hay đàn bà?
- Đàn ông.

- Tốt. Rót cho chủ một tách.
Tôi làm theo lời cô ấy, Mameha ngẩng mặt nhìn theo tay áo của tôi khi tôi đưa ra để rót trà.
- Tại sao cô thích làm như thế? – cô ấy hỏi – vì nếu cô đưa cánh tay quá cao như thế trông có vẻ hớ hênh.
Tôi rót lại với cánh tay hạ thấp. Lần này cô ấy giả vờ ngáp và quay qua nói chuyện với một cô geisha tưởng tượng đang ngồi ở phía bên kia.
- Em nghĩ chị đã cho em biết chị chán nản – tôi hỏi – tại sao em rót trà mà chị tỏ ra chán nản như thế?
- Vì cô không muốn tôi nhìn lên tay áo của cô, nhưng làm thế không có nghĩa là cô đoan trang. Đàn ông chỉ quan tâm đến một chuyện mà thôi. Cô hãy tin tôi đi, rồi cô sẽ hiểu những điều tôi nói. Có có thể làm cho họ sung sướng bằng cách để cho họ tin rằng họ được cô cho phép nhìn vài nơi trên thân thể của cô mà không ai có thể nhìn được. Nếu người geisha tập sự mà hành động như cô vừa rồi – rót trà như người hầu rót – thì anh chàng ngồi với cô sẽ mất hết hy vọng. Làm thử lại đi, nhưng trước hết cô phải đưa cánh tay cô cho tôi xem.