Ngân Xuyên có thức giấc một lần, anh tưởng giấc mộng kéo dài, mình đã ngủ một mạch tới sáng ngày hôm sau, ngoài cửa sổ là ánh dương sáng rực. Nhưng sau khi tỉnh táo lại, anh mới biết đó không phải nắng mặt trời, cũng chẳng phải ánh trăng, mà là tuyết, tuyết bay rợp trời. Đèn đường chiếu sáng những bông tuyết trắng muốt, bầu trời ngoài cửa sổ trắng xóa, sáng rực.

Tuyết rơi rất dày, gió thổi ào ào, dây điện thoại nối trên tường đã bị gió thổi đứt đoạn, cố chấp gõ từng nhịp lên cửa sổ thủy tinh. Anh sợ tiếng động đáng ghét ấy sẽ đánh thức người trong lòng, bèn ôm cô chặt hơn, tay anh che kín tai cô, cô khó chịu giãy giụa nhưng vẫn tựa vào anh, những lọn tóc mềm mại chạm vào lồng ngực anh,hơi thở ấm áp phả ra. Cảm giác ấy khiến anh cảm thấy thân mật gần gũi hơn cả sự quấn quýt ban nãy. Cảnh Ninh đang say ngủ, hàng mi dài rợp bóng trên gò má trắng nõn, đôi môi đầy đặn hơi cong lên, cô tin tưởng anh, không hề đề phòng hay dè chừng, cô là cô bé mà anh luôn đem lòng yêu.

Nằm trên cùng một chiếc giường với cô, kề cận gắn bó, tay chân quấn quýt, đây là một cảm giác vô cùng lạ lẫm. Hệt như một giấc mộng. Dù nó có đang thật sự diễn ra, anh cũng không dằn lòng nổi mà lặng lẽ cắn vào môi hay ngón tay mình, để chắc chắn xem đây có là sự thật không.

Đúng là không phải mơ, cô đang ở bên anh.

Cơn bão tuyết khóa họ lại trong một tiết điểm thời gian, cho họ lý do để thuyết phục mình dừng lại ngay khoảnh khắc này. Họ co mình trong phòng, mọi thứ ngập trong màn tuyết mờ ảo khó đoán hơn là thế giới hiện thực mông lung trong bóng đêm. Cô sẽ để anh nhìn cô chăm chú, quan sát cô, thưởng thức cô, để ánh mắt anh dừng lại trên mỗi tấc da thịt cô. Cô cũng sẽ đột ngột đẩy anh xuống, chống cùi chỏ trên ngực anh, quan sát anh bằng đôi con ngươi đen láy sáng ngời, hệt như đang tìm lại một thuở ban đầu đã rất xa. Thời gian trôi đi, vẻ ngoài anh vừa quen thuộc vừa xa lạ, mũi, mắt, hàng mày đẹp, cặp môi với những đường nét rõ ràng, bắp thịt làn da căng chắc bóng loáng, cơ thể đẹp đẽ cao lớn, mọi hành động của anh đều như bị kìm kẹp trong xiềng xích, trong nỗi đau đớn và dục vọng như số kiếp đã định. Có thể cô hiểu được anh, cũng có thể không. Dù sao anh cũng đã khiến cô rơi xuống vực thẳm của anh. Cô cúi đầu nhìn gương mặt anh, cô đã quen với tình cảm và sự lưu luyến trong mắt anh, từ thời còn nhỏ, ánh mắt anh đã từng cho cô ấm áp, cho cô ý chí, ánh mắt của anh còn ẩn chứa sự mệt mỏi rệu rã, nó không chỉ đến từ thân thể mà còn đến từ linh hồn anh, giờ đây mọi sự kiệt quệ đều cháy bừng lên, hóa thành những chòm sáng.

Khi cô nhìn anh chăm chú, anh lập tức cảm nhận được cảm giác hạnh phúc và ấm áp. Anh cảm thấy mình chưa từng hạnh phúc, anh điểm lại thật kỹ càng những ký ức vui vẻ hiếm hoi của mình, phải, đây chính là giờ phút anh hạnh phúc nhất, hồn xiêu phách lạc. Khi mái tóc dài đen nhánh của cô xổ ra, lướt trên cơ thể anh, anh cảm thấy càng lúc hít thở càng khó khăn hơn, niềm khát vọng mãnh liệt và sự tham lam không có điểm dừng cuồn cuộn trong anh, không gì có thể ngăn cản anh, anh phải nắm chặt lấy cô, nắm chặt trong tay mình, khóa cô trong căn nhà này, như một con chó sói hoang độc chiếm bạn đời của mình. Họ cuốn lấy nhau, lần nào cũng như sự bùng nổ sau những tháng năm dài kìm nén, cô là tờ giấy Tuyên Thành mềm mại, còn anh là nét mực cứng cáp.

Tuyết ngoài cửa sổ rơi không ngớt, đêm nay dài đằng đẵng, nhưng dường như anh đã cùng cô trải qua bao ngày đêm luân phiên, mọi giác quan đều bén nhạy hơn, âm thanh được phóng đại, động tác cũng rõ ràng, cô và anh lưu lại trong cùng một tấc thời gian, cùng nhau phạm một thứ tội lỗi bí ẩn. Với anh đây là tội, còn với cô có lẽ còn thêm cả sự hổ thẹn.

Con người ta có thể sống trong sự hổ thẹn không?

Mỗi lần anh rời đi, cô đều đứng trước cửa sổ nhìn anh, nhưng cô không biết anh sẽ đỗ xe bên một góc đường rồi lặng lẽ men theo những mái hiên của dãy cửa hàng để quay lại, anh tìm tới toà nhà của cô, đứng chờ nửa tiếng trong gió lạnh rồi mới yên tâm rời đi. Có lần rời nhà, cô phát hiện anh đi theo mình, nếu không phải anh thì cũng có người khác, tất cả đều là thân tín của anh. Có lúc anh sẽ đột nhiên quay lại, mang cho cô thứ gì đó hoặc nói cho cô hay việc tìm kiếm Tiểu Quai có tiến triển gì. Còn có thể có tiến triển gì chứ, đến kẻ bắt cóc Tiểu Quai cũng chết rồi, có lẽ Tiểu Quai đã lành ít dữ nhiều. Cảnh Ninh biết Ngân Xuyên chỉ đang mượn cớ để tiếp cận cô mà thôi. Cô cũng biết anh đang sợ điều gì, sợ cô nhảy lầu, sợ cô tự sát, sợ cô chạy mất. Mà cô tìm tới cục cảnh sát và phòng tuần bộ mỗi ngày cũng chỉ vì thứ hy vọng mù quáng bức bách, không có tia hy vọng này, cô không biết mình sống còn có ý nghĩa gì nữa.

Chỉ trong vài ngày ngắn ngủi, cô đã khiến bản thân quen với sự có mặt của Ngân Xuyên trong cuộc đời mình, dù nó chỉ có tác dụng như một liều thuốc mê, nhưng quả thực anh đã khiến cô tạm quên đi nỗi đau.

Sau một lần khi những cảm xúc mãnh liệt trôi đi, Ngân Xuyên đang chìm đắm trong ảo tưởng cuối cùng cũng không dằn lòng nổi, anh nói với Cảnh Ninh: “Ninh Ninh, cưới anh đi, chúng ta hãy kết hôn, sinh con, sống bên nhau suốt đời này.”

Chính câu nói này đã đánh thức cô, kéo cô trở lại hiện thực, đám mây mù trong đầu cô tan đi, sự thật tàn khốc mà cô cố gắng lãng quên lại sừng sững trước mắt như một bức tường.

Luân hồi là gì? Chẳng qua chỉ là tự gây nghiệt, không thể sống tiếp mà thôi. Khi gây tội, chẳng ai nghĩ mình sai cả, ai mà chẳng có lý do đường hoàng chính đáng? Anh lại trở về làm anh cả, anh luôn là anh cả.

Cô và anh đang phạm tội.

Tuyết rơi tròn hai ngày, tan cũng mất đầy hai ngày. Khoảng thời gian như đóng băng trong tâm trí cuối cùng cũng đã đi tới hồi kết.

Gần tới Giáng sinh, cô nói muốn về nhà mẹ đẻ mừng lễ, bảo anh đi mua chút quà, Ngân Xuyên vui vẻ rời đi. Nhưng anh vẫn không thay đổi, rời cửa rồi lại lập tức vòng về, lặng lẽ quan sát cô có lén bỏ đi không. Biết anh sẽ làm vậy nên ngày hôm ấy cô chỉ cầm một chiếc túi xách, ngoài ra không mang theo thứ gì, trông như đang thảnh thơi đi dạo phố. Cô tới vườn hoa gần nhà mua một đóa hoa hồng trước, sắp tới Giáng sinh, muốn mua hoa phải đặt trước. Đặt xong hoa, cô gọi xe kéo tới cục cảnh sát rồi lại đến phòng tuần bộ Tô giới Pháp, dù biết rõ sẽ không có tin của Tiểu Quai nhưng cô vẫn đi hỏi.

Ngân Xuyên chỉ bám theo đến cửa hàng hoa là đã yêu tâm, nếu cô muốn đi thì còn đặt hoa làm gì? Anh quyết định sẽ tới cửa hàng cô dặn để mua đồ, công việc của anh còn rất nhiều vấn đề cần xử lý, mua sắm xong anh lại trở về hiệu buôn Tây.

Sau khi rời Tô giới Pháp, Cảnh Ninh tới thẳng nhà Đồng Xuân Giang.

Cô tìm thấy bà Đồng, nhờ người phụ nữ này đưa mình tới gặp Đồng Xuân Giang, sau đó nói với họ rằng: “Con tôi bị bắt cóc tại nhà họ Đồng, tôi có trách nhiệm, nhà họ Đồng cũng có trách nhiệm. Con mất rồi, nhà họ Đồng không trả được con lại cho tôi, gia đình tôi tan nát, nhà họ Đồng cũng không thể trả lại gia đình cho tôi.”

Đồng Xuân Giang cau mày: “Cô Phan, tôi chưa từng chối bỏ trách nhiệm của mình, đến giờ tôi vẫn đang nghĩ cách giúp cô tìm con. Chuyện xảy đến với gia đình cô quả thực rất bất hạnh, nhưng nếu cô cứ ôm lấy nỗi bất hạnh này mãi, yêu cầu người khác phải gánh chịu nó cùng cô thì quá bất công với cả cô lẫn mọi người. Cô là một người phụ nữ trưởng thành, đỗ đạt học cao, cô không nên ngang ngạnh không nói phải trái như vậy.”

Cảnh Ninh cười hờ hững: “Ngài Đồng từng nuôi chó bao giờ chưa?”

Đồng Xuân Giang khá ngạc nhiên, ông gật đầu: “Tôi có.”

Cảnh Ninh cười, bình tĩnh nói: “Năm tôi bảy tuổi, mẹ dắt tôi và hai anh trai tới nghỉ hè ở vùng nông thôn quan san, chúng tôi tá túc vài ngày tại một gia đình khá giả. Nhà đó có nuôi một con chó chăn cừu lớn, sau khi mấy đứa nhóc chúng tôi đến chơi, chủ nhà lo chúng tôi sợ chó nên đã nhốt nó sau hàng rào, còn xích cả cổ nó lại nữa. Chú chó đó là một con chó mẹ đang có mang, chúng tôi tới được ba ngày thì nó hạ sinh sáu chú chó con, có hai con chết, thế là nó dồn mấy con cún còn lại nằm cạnh mình, liên tục liếm người cho chúng nó, sợ chúng nó chết. Đến một tối, có kẻ lẻn vào trộm chó con, đám người này rất ác, đứng ngoài hàng rào sắt lén lút quăng lưới vào trong, lặng lẽ câu mất hai chú chó, đến chú thứ ba thì chó mẹ phát hiện ra, bèn sủa ầm lên, muốn xông ra cứu mấy con cún con của nó. Nhưng hàng rào sắt rất chắc chắn, nó không lao ra được, đến khi mọi người giật mình tỉnh dậy, chạy ra ngoài vườn xem có chuyện gì thì hàng rào sắt đã méo vẹo vì những cú đâm, còn con chó nọ thì như lên cơn điên, đầu nó chảy máu ròng ròng, cuối cùng thì đâm đầu vào rào đến chết. Ngài nói xem nó có sợ đau không? Ngài nói xem nó có nghĩ đâm vào hàng rào là một chuyện vô ích, một chuyện thiếu lý trí không? Nhưng vì con mình, nó bằng lòng làm vậy, nó không thấy hành động của mình ngu ngốc chút nào, dù có chết nó cũng thấy đây là lẽ đương nhiên. Đến súc sinh còn vậy huống chi là con người. Trong lòng người mẹ, con cái quan trọng hơn tính mạng cả nghìn vạn lần, đến mạng cũng bỏ được, nào còn hơi sức đâu mà nghĩ tới phải trái ương ngạnh. Vậy nên ngài Đồng đừng nói chuyện phải trái với tôi.”

Bà Đồng nghe mà xúc động, mắt đỏ hoe ứa lệ. Đồng Xuân Giang im lặng hồi lâu, nét mặt cũng dịu đi, ông nói: “Hôm nay cô Phan tới là muốn tôi giúp cô chuyện gì? Cô cứ nói đi, chỉ cần có thể làm được, nhất định tôi sẽ cố gắng hết sức.”

Cảnh Ninh nói: “Vậy tôi xin phép bỏ mặc chuyện phải trái nốt lần này. Ngài Đồng, ngài là người bản lĩnh cao cường, chuyện gì cũng có thể làm được, tôi muốn nhờ ngài đưa tôi rời khỏi Hán Khẩu trong hôm nay. Dù tôi có đi đâu thì ngày ngày vẫn sẽ mua một tờ ‘Sở báo’, xin ngài Đồng hãy đồng ý với tôi, hễ có tin tức gì của con tôi thì hãy đăng lên trang bìa ‘Sở báo’.”

Đồng Xuân Giang kinh ngạc: “Vậy cô… cô muốn đi đâu?”

Cảnh Ninh lắc đầu: “Tôi không biết. Tôi chỉ nghĩ nếu là việc tìm con, các ngài đủ năng lực để lật tung cả Hồ Bắc lên tìm, tôi không cần lãng phí thời gian lưu lại đây. Còn về phần đi đâu… Tôi chỉ có thể đi theo trực giác của mình, đi tới đâu tính tới đó.”

Đồng Xuân Giang thở dài, ông gật đầu: “Được, tôi sẽ lo liệu và chuẩn bị cả tiền lộ phí lẫn sinh hoạt phí cho cô, cô không cần lo lắng.”

Có tia sáng lạ lùng lóe lên trong mắt Cảnh Ninh, cô nghiến răng, nói tiếp: “Ngoài ra tôi muốn xin ngài Đồng hãy hứa với tôi một chuyện: Anh Trịnh Ngân Xuyên – bạn tốt của ngài – sẽ không tìm thấy tôi.”

Đồng Xuân Giang đang cầm điện thoại, chuẩn bị bảo phòng kế toán mang tiền tới, nghe được câu này, động tác ông khựng lại vài giây.

Chiếc xe hơi băng qua trường trung học của cô, Cảnh Ninh nhờ tài xế dừng xe một lát. Bác bảo vệ già vẫn nhớ cô, ông nở nụ cười hiền hậu, để lộ hàm răng khuyết mất một chiếc rồi mở cửa cho cô. Cảnh Ninh trao cho bác bảo vệ một cái ôm rồi bước thẳng vào tòa giáo đường nhỏ trong trường.

Có tiếng đàn organ vọng lại từ góc sâu giáo đường.

Sau vài nốt thử đàn, nhịp điệu êm ái vang lên, những đứa trẻ trong dàn hợp xướng hát vang thánh ca bằng chất giọng trong trẻo ngân vang của mình, âm thanh thuần khiết vang vọng trong không gian rộng rãi. Chúng đang luyện tập cho tiết mục trong buổi lễ sắp tới của mình. Cũng có vài học sinh tới làm thính giả, chúng nhắm mắt, cúi đầu với tư thế sám hối, tiếng ca đã đánh thức nỗi buồn và sự khoan dung trong chúng.

Cảnh Ninh không cúi đầu, tượng Jesus phía trước lấp lánh tỏa sáng nhờ ánh mặt trời rọi vào qua lớp cửa thủy tinh, cô nhìn chăm chú gương mặt đại diện cho nỗi đau khổ và sự cứu chuộc, hồi tưởng lại rất nhiều chuyện và rất nhiều con người trước kia. Giờ phút ấy, cô tạm không nghĩ ngợi về nỗi đau của mình nữa, cô chỉ cầu nguyện cho những người đã để lại dấu vết sâu đậm trong cuộc đời mình, cô cầu nguyện cho Tử Chiêu, cho Đức Anh, cho mẹ và anh trai, cho người cha mất tích, cho Tiểu Quai, cô cũng cầu nguyện cho cả Ngân Xuyên. Cô cầu nguyện với Thượng đế – người có lẽ thật sự tồn tại – rằng hãy khoan thứ cho tội lỗi của Ngân Xuyên, vì linh hồn anh đã luôn bị giày vò trong địa ngục đau khổ, mà anh thì đã lầm tưởng rằng cô là điều duy nhất có thể khiến nỗi đau ấy vơi đi.

Còn cô thì sao? Có lẽ thứ tội lỗi cô mang sẽ vĩnh viễn không gột sạch được, nhưng cô vẫn bướng bỉnh cho rằng đó không phải lỗi của mình. Cô không hy vọng, mong mỏi Thượng đế có thể tha thứ cho cô, cô cũng không để tâm tới chuyện này.

Đầu cô lúc thì trống rỗng, lúc lại như những đám mây lộn xộn xếp chồng trên trời cao, ký ức lướt qua như đèn kéo quân, nhưng cô không thể tiếp tục dừng lại. Cô có chuyện buộc phải làm. Cô tin chắc rằng Tiểu Quai còn sống, mỗi lần niềm tin ấy dâng lên, cô đều cảm nhận được cơ thể nóng hổi, mềm mại của Tiểu Quai đang tựa vào lồng ngực mình. Cô tin chắc rằng rồi một ngày cô sẽ gặp lại Tiểu Quai, cô phải tin vào trực giác của một người mẹ. Cô muốn đi tìm con cô, muốn tìm lại cả chính cô.

Cảnh Ninh đứng dậy, quay người bước vội khỏi giáo đường.

Gió sông như dao, trăng lạnh treo cao, mặt sông không một vệt sáng.

Trời đêm sau cơn tuyết lạnh lẽo, lạnh đến nỗi không khí cũng trở nên cứng rắn, hơi thở đình đốn, lạnh đến mức tốc độ máu chảy trong huyết quản chậm lại, khiến người ta gần như bỏ quên nhịp đập của mình. Ánh đèn đường trở nên sắc lẹm, găm xuống mặt đất thật dữ dội, rồi ánh đèn xe lại va vào chúng thật gấp gáp, khiến chúng hóa thành những tia vun lạnh băng, bắn tung tóe trên bức tường bạc phơ của khu quần thể kiến trúc kiểu Âu.

Anh ta mở cửa xe, tìm từng lối phố một, trông từng con đường một. Ngoài đường chẳng có những tên say, kẻ ăn mày hay đám du côn gây chuyện, không có lấy một bóng người.

Đã là ba giờ sáng rồi, đến chuột cũng không muốn chạy trong đêm lạnh.

Tố Hoài chỉ đành trở lại khu nhà ở Tô giới Đức, ủ dột bước qua cánh cổng vòm gothic. Ngân Xuyên đã mua tầng ba và tầng bốn của tòa nhà này. Tầng ba là văn phòng mới dành cho hiệu buôn Vĩnh Hòa, tầng bốn là nơi ở cho nhân viên quản lý cấp cao của hiệu buôn Tây. Tố Hoài dụi đôi mắt khô rát, nhìn hành lang vắng tanh, cửa phòng Ngân Xuyên đang khép chặt.

Anh ta trở lại phòng mình, đun một cốc trà rất đậm, uống mấy hớp lớn. Còn phải đợi tin của Nam Gia nữa, anh ta không định ngủ luôn, đợi đến khi trời sắp sáng, tiếng chuông điện thoại chợt reo lên, anh ta nhào phắt tới, chất giọng trầm lắng của Nam Gia vọng lại: “Tới đường Lợi Tế đi.”

Ngân Xuyên cuộn tròn trên san, như một bóng đen mờ nhòa, người anh nồng nặc mùi rượu, đang lẩm bẩm vài câu gì đó, Tố Hoài thấy rõ mặt mũi người ngợm anh bắn đấy bùn, bùn dưới ống quần đã két cứng lại. Anh ta chưa bao giờ thấy Ngân Xuyên thế này, dù năm ấy vào tù gặp anh, anh cũng không sa sút đến vậy. Dù người ta đạp gãy xương sườn anh, đau đến độ không nói năng nổi thì khi đi lại anh vẫn cứ ngẩng đầu ưỡn ngực. Nhưng sau khi Phan Cảnh Ninh bỏ đi, linh hồn anh cũng đi theo cô. Lòng tự trọng và sự kiêu ngạo của anh, lý trí và sự nhạy bén của anh biến mất. Anh dần đổ sập xuống trong sự tĩnh lặng im ắng, cõi lòng mà anh cất giấu không để ai hay biết, thứ sức mạnh tinh thần mà anh che lấp kỹ càng nát vụn như tảng băng bị vùi trong lửa cháy rồi hòa tan. Từ lâu Nam Gia đã lo sớm muộn gì tình trạng này cũng sẽ xảy ra, anh ta cũng từng cảnh cáo rồi. Ban đầu Tố Hoài không tin, giờ thì không thể không tin được.

Vậy còn kẻ đã đưa ra lời tiên đoán thì sao? Tố Hoài đưa mắt nhìn Nam Gia đang đứng một góc, anh ta nghiêng người tựa vào khung lò sưởi, khoanh tay, vẻ mặt hờ hững thờ ơ, như thể Ngân Xuyên là một kẻ hoàn toàn xa lạ với mình.

“Anh đứng đó làm gì? Kéo cậu ấy dậy đi!” Tố Hoài sốt sắng, anh ta tiến lại, vươn tay toan dìu Ngân Xuyên dậy, nhưng lại bị Ngân Xuyên gạt đi.

“Cút đi!” Hai mắt Ngân Xuyên đỏ lừ, anh dữ dằn thét, “Cút đi cho tôi!”

Tố Hoài chỉ có thể lùi bước, Nam Gia nhún vai: “Tìm thấy cậu ấy đã khó khăn lắm rồi, giờ cậu ấy thì làm gì thì mặc. Kệ cậu ấy đi.”

“Anh tìm được cậu ấy ở đâu?”

“Ở mảnh đất hoang ngoại ô phía tây,” Nam Gia lạnh nhạt nói, “cũng may tôi biết trước đây cậu ấy thường tới đó, nhưng đêm đông rét như cắt, tìm cậu ấy cũng chẳng dễ.”

Tố Hoài vừa lo vừa tò mò: “Cậu ấy tới ngoại ô phía tây làm gì?”

Nam Gia cười lạnh: “Cậu ấy bảo muốn đi tìm mấy con vịt! Cậu ấy muốn tìm mấy con vịt mình thả đi cho cô Phan!” Nói rồi, anh ta cao giọng, to tiếng với Ngân Xuyên, “Cậu Trịnh, cậu không chết rét là may mắn lắm rồi đấy! Cậu trông cái bộ dạng điên điên khùng khùng của cậu đi, có thấy có lỗi với người mẹ đã khuất của mình không? Có thấy có lỗi với nỗi khổ cực bao năm nay của cậu không? Cậu trông mình hèn kém chưa!”

Ngân Xuyên vươn tay, chầm chậm che tai lại. Anh không nghe.

Nam Gia chẳng buồn cảm thông, nói: “Cậu Trịnh cũng giống mọi người, đều là một đám vô dụng ích kỷ! Cậu chẳng những không bằng Mạnh Tử Chiêu mà còn kém cỏi hơn cả Từ Đức Anh!”

“Im đi!” Ngân Xuyên bịt mắt, thét lên.

“Cậu đừng có chối.” Ánh mắt lãnh đạm mệt mỏi của Nam Gia thoáng có tia đau đớn trĩu nặng, “Ngay cả Mạnh Tử Chiêu và Từ Đức Anh cũng hiểu cách từ bỏ hơn cậu, đến họ cũng bằng lòng trả lại tự do cho cô Phan, chỉ mình cậu giữ chặt cô ấy không buông, chẳng lẽ phải nhìn thấy cô Phan bị cậu hủy hoại thì cậu mới vừa lòng sao? Giờ cô ấy gần như đã bị cậu hủy hoại mất rồi! Sao cậu không chịu quay đầu vậy!”

“Nam Gia!” Tố Hoài kinh ngạc, vội khoát tay ý bảo bạn mình đừng nói tiếp.

Đôi môi Nam Gia run rẩy vì tức giận, căn hộ trở nên vô cùng yên tĩnh, chỉ có chiếc đồng hồ để bàn mạ vàng kêu tích tắc.

Ngân Xuyên buông hai bàn tay đang bịt lấy tay, hai bàn tay ấy đã sây sát vì cái lạnh trong đầm lầy, móng tay đỏ sậm, khớp ngón tay nứt tím bầm. Tố Hoài chỉ cúi đầu thoáng liếc qua rồi không dám nhìn nữa, nước mắt ứa ra.

Nam Gia chậm rãi bước tới bên Ngân Xuyên, anh ta quỳ xuống, khẽ nói: “Cậu Trịnh, buông tha cho cô ấy đi, như vậy cô ấy mới có thể hạnh phúc, nếu hai người gặp lại nhau, cả hai sẽ chỉ tạo nên bi kịch, khi ấy không thể…”

Anh ta chợt ngưng bặt, không nói tiếp nữa, vì anh ta nhìn thấy Ngân Xuyên đang rơi lệ. Họ chưa từng thấy anh khóc. Anh là một con người kiên cường, bướng bỉnh. Anh đang rơi nước mắt, nhưng anh không khóc.

Anh chỉ liên tục rơi nước mắt, những giọt nước mắt tích tụ trong bao năm giờ như nước lũ vỡ đê, liên tục tràn ra, tràn vào tim, khiến tim anh đập rộn lên; tràn vào đầu, khiến anh choáng váng trĩu nặng; tràn vào huyết quản, khiến máu huyết sôi sục; tràn vào tứ chi, khiến đầu ngón tay, đầu ngón chân, từng khớp xương đau đớn.

Ngân Xuyên đang rơi lệ vì sai lầm của anh. Vì sự tự phụ và dã tâm của anh. Vì thứ tình yêu anh có được rồi cuối cùng lại đánh mất, đó là đóa hoa hồng của tuyệt vọng nở trong mảnh đất hận thù. Anh khóc vì tòa thành cô độc đang giam cầm anh.

Anh từng cho rằng mạch đập của toà thành này và trái tim của anh cùng chung một nhịp, nhưng giờ anh chợt thấy nghẹt thở, hóa ra là vì cô đã bỏ đi. Cô là trái tim của anh, cô đã rời khỏi tòa thành này.

Cảnh Ninh mang ảnh của Tiểu Quai theo, cô kẹp một mảnh giấy bên dưới khung ảnh.

Trên đó có viết: “Anh cả, em rất muốn sống tiếp, nhưng em buộc phải rời xa anh, vì em phát hiện chỉ có rời xa anh, rời xa thành phố này em mới có thể thôi đau khổ. Anh đừng giận em, vì anh là người thương em nhất trên đời này, đừng buồn, nếu được thì hãy cứ coi như đang chơi trốn tìm cùng em, coi như đang cùng em chơi một trò chơi.”

Anh đồng ý với cô, chuyện gì cũng đồng ý, nhưng anh không thể không đau lòng. Anh gọi tên cô, cố chấp đeo đuổi như một đứa trẻ tuyệt vọng bướng bỉnh.

“Hạt Dẻ, Hạt Dẻ! Em mau ra đây đi, chúng ta không chơi nữa có được không? Anh không chơi trốn tìm với em, anh không tìm được em! Em mau về đi! Anh sai rồi, anh sẽ không làm em tức giận nữa, anh sẽ không làm vậy nữa!”

“Anh bằng lòng làm tất cả vì em, em muốn gì anh cũng đồng ý, nhưng đừng rời bỏ anh, anh không có nhà, anh không còn nhà nữa rồi! Anh không còn nhà nữa!”

Nghe vậy, Nam Gia im lặng, dường như không thể thấy được gợn cảm xúc nào trên gương mặt anh ta. Anh ta tưởng mình đã lòng gan dạ sắt lắm rồi, có đủ lý do để cho rằng Ngân Xuyên không đáng được cảm thông, nhưng cổ họng và xoang mũi anh ta vẫn cứ cay cay, có lẽ vì cửa sổ để mở nên mặt anh ta cũng lạnh cóng, lạnh tới phát đau, cơn lạnh ấy dần thấm vào xương cốt, lướt lên xuống bên tai, trượt trên cổ họng, anh ta vươn tay chạm thử, hóa ra là nước mắt.

Vầng trăng lạnh buông những quầng sáng tĩnh lặng, như đôi mắt dịu dàng đang nhìn thế gian chăm chú đầy buồn đau. Bó hoa Cảnh Ninh đặt trước khi đi nằm trên chiếc bàn bên cửa sổ, cánh hoa sẫm đỏ đã héo khô.

Đây là chuyện xảy ra vào những ngày cuối cùng của năm 1933.

Năm 1934, một tháng sau dịp năm mới, Lý Nam Gia bước khỏi tòa nhà của hiệu buôn Tây Phổ Huệ, bắt gặp Lưu Ngũ đã đứng đợi mình từ lâu dưới bậc thềm đá.

“Ngài Đồng muốn gặp cậu Lý.” Lưu Ngũ khẽ khom người chào Nam Gia, không đợi anh ta đáp lời đã mở cửa chiếc xe con, vươn tay, “Mời cậu.”

Đồng Xuân Giang ngồi phía hàng ghế sau. Ông gật đầu với Nam Gia vừa bước lên xe. Trước khi đóng cửa xe, Lưu Ngũ ấn chiếc mũ trên đầu Lý Nam Gia xuống, che khuất lấy mắt anh ta một cách khá thô lỗ. Nam Gia rất tự giác, ngồi bất động mặc cho chiếc xe vòng vèo trên đường phố Hán Khẩu, anh ta không hề tò mò, cũng chẳng sợ hãi điểm đến của chuyến xe này.

Đồng Xuân Giang liếc nhìn anh ta, thoáng tỏ vẻ tán thưởng, ông ta hiểu rất rõ chàng trai này. Lý Nam Gia xử lý công chuyện rất nhanh nhẹn quyết đoán, suy nghĩ chín chắn, không hay thể hiện. So với Vu Tố Hoài, anh ta phải tiếp xúc với những công việc tế nhị và phức tạp hơn. Dù vậy nhưng anh ta lại ít khi tự ý qua lại với đối tác làm ăn, đồng thời còn giữ khoảng cách nhất định với người trong bang hội, không bao giờ chủ động tiếp cận.

“Tôi biết thói quen của cậu Lý, lúc nào cũng phải bàn công chuyện ở văn phòng, không bao giờ tới quán trà hay nhà hàng, cũng không bao giờ lên xe người khác. Hôm nay tôi cũng rất xin lỗi vì đã gượng ép cậu Lý phải lên xe mình.”

“Ngài Đồng, ngài khách khí quá.” Giọng điệu Nam Gia lễ phép nhưng lạnh lùng.

“Xin cậu Lý đừng lo tới vấn đề an toàn. Thứ nhất là dạo gần đây không ai dám ám sát tôi ngoài đường giữa ban ngày ban mặt; thứ hai, cửa sổ làm bằng kính chống đạn.”

“Tôi không lo. Vừa khéo gần đây Phổ Huệ đang làm đại lý cho một lô kính tốt nhất toàn cầu, trong đó có cả kính chống đạn. Nếu ngài Đồng bằng lòng, chúng tôi có thể mang hàng mẫu tới nhà ngài.”

Đồng Xuân Giang phì cười, ông gật đầu liên tục: “Tôi còn tưởng cậu Lý là người hướng nội, cứng nhắc, nào ngờ lại lanh lợi khôn khéo, nhanh mồm nhanh miệng như vậy. Tướng tài dưới trướng Ngân Xuyên quả là danh bất hư truyền.”

“Ngài Đồng quá khen rồi. Thời gian của ngài quý giá, ngài có chuyện gì muốn nhờ Nam Gia thì xin cứ nói.”

“Được. Cậu Lý là người thân tín nhất của Ngân Xuyên, tôi có vài chuyện quan trọng liên quan tới cậu ấy muốn bàn với cậu Lý.”

Đồng Xuân Giang xoay người, mỉm cười với anh ta, hàng mày kiếm nhướng lên, để lộ nét cười đầy ẩn ý.

- -----oOo------