Ta nằm trong lòng Tề Sách, ngồi trên yên ngựa, chúng ta chậm rãi rời đi.
Nước mưa xối ướt đẫm cơ thể, càng khiến cho hai cơ thể dán chặt vào nhau, cũng vì thế mà giữa cái lạnh cóng ấy, ta còn cảm nhận được hơi ấm mơ hồ từ người phía sau.
Tề Sách bảo hộ ta trong vòng tay hắn, ngỡ như châu như ngọc, chỉ cần một cái chạm mạnh, cũng đủ để ta tan thành tro bụi.
Đầu tựa vào trước ngực hắn, lúc này đây luân thường đạo lý chẳng còn là gì, ta vốn là nghịch tử, không quản những điều lễ nghi ấy.
Còn hắn, thân là một Hầu gia, hầu hết mỗi nơi hắn đi ngang, đều như nhau phục tùng cúi đầu.

Ai dám đánh giá quyền lực?
Vòng tay hắn rộng lớn, lại rất ấm áp, như hòn than trong đêm đông, giữa nước mưa nhạt nhòa, ta níu lấy bàn tay của hắn, cứ thế mà yên lặng, chỉ còn mười ngón đan nhau.
Ta hờ hững nhìn quang cảnh mù mịt tối đen của đêm mưa kinh đô, Hồng Phi đem chúng ta chậm rãi lang thang.
Chỉ không lâu sau, Tề Sách sẽ đưa ta hồi Hầu phủ của hắn.

Ngay lúc ấy, khi cơn mưa dần rơi nhẹ hạt, ta dường như tỉnh táo lên không ít, ánh mắt vô tình trông thấy đằng sau những mái nhà san sát của bá tánh, có một tòa phủ ngói đỏ lưu ly, những hạt mưa rơi xuống vỡ tan thành bọt nước trên đấy, lấp ló bên cạnh mái ngói đỏ, là một cây hoa hải đường nở rợp cả một vùng trời.
Ta ngây dại, rời khỏi lồng ngực của Tề Sách, ánh mắt cứ mãi trông về phương trời ấy.
Soạt một tiếng, ta vội vàng rời khỏi lưng ngựa, dưới sự hoảng hốt của Tề Sách, ta chạy vội đến nơi đấy.
Mặc kệ cơ thể dường như ngay cả xương cốt cũng muốn tách rời, hai chân run bần bật, ta như một kẻ điên, một người sắp chết đuối lại tìm thấy tấm ván gỗ lềnh bềnh ngoài biển khơi, vội vội vàng vàng, dưới màn mưa tầm tã, lao nhanh đến nơi hương hoa hải đường nở rộ.
Bắp chân tê rần, cơn đau nhói đột nhiên hiện tới, khiến ta mặt mũi trắng bệch, lập tức ngã nhào xuống mặt đất, bùn cát cùng nước mưa hất cả lên mặt, gây ra những vết dơ bẩn.

Ta ngẩng đầu, trông về phía cảnh cổng lớn đang đóng đấy, bệ cửa vẫn cao như thế, nét sơn đỏ lựu đã sớm theo năm tháng mà phai dần, lộ ra những nét đứt xen kẽ, trên cửa lớn ấy, có một tấm bảng méo xệch, bụi bẩn vây lấy, họa lên bốn từ Đường Gia Tàn Thư.
Đường Gian Tàn Thư có mái đình, sâu bên trong là tòa phủ gia, nơi đấy cũng được xem như phủ Tể Tướng năm nào.
Là nhà của ta.
Ta lồm cồm bò dậy, vội vàng đi tới cổng lớn, sau đó ầm một tiếng thiên lôi, cánh cửa nặng nề mở ra, ta bộ dạng chật vật, ngơ ngác nhìn quang cảnh tiêu điều bên trong.
Chín năm xa cách, cuối cùng cũng được về.
Phụ thân, cảm giác khi đó của ngài là gì?
Có phải như ta, tâm thành tro, bi thương đầy trời hay không?
Từng tàn hoa hải đường rung rinh theo mưa rơi xuống, vươn rãi khắp sân, giữa quang cảnh mù mịt, ta như bị chôn chân mà đứng đấy.
Bàn tay bị người nắm lấy, bên tai vang lên âm thanh trầm khàn giận dữ của nam tử.
"Hồ đồ!"
Tề Sách khóe mắt đỏ ngầu, dường như hắn rất tức giận.
Ta hồ nghi nhìn y, sau đó trông thấy trên đôi bàn tay trắng nõn của mình, từng giọt từng giọt máu tanh nồng rơi xuống, bị nước mưa xối đi, tí tách vỡ dưới nền đất, thấm ướt tay áo.
Những mảnh gỗ dằm đâm vào da thịt, cửa lớn xù xì vì va chạm mạnh mà hư tổn lòng bàn tay, để lại là những vết thương chằng chịt.
Kì quái, ta lại không cảm thấy đau đớn gì cả.

Chỉ có chăng là mùi máu tanh thoang thoảng xung quanh, mê hoặc tâm trí ta.
Tề Sách nắm lấy bàn tay của ta, y loay hoay, dường như đang tìm kiếm một thứ gì.
Ta yên lặng, rụt tay về.
Dưới sự kinh ngạc của Tề Sách, chậm rãi, từng bước từng bước tiến vào bên trong phủ gia.
Dưới bậc thềm cầu thang, ta dừng bước, đưa đầu trông về đằng sau, nơi ấy nhân ảnh bạch y chật vật đứng yên ở đấy, mái tóc hắn ướt thẫm, dung nhan lại thập phần diễm lệ, ta trông vào đôi mắt của hắn, lời muốn hắn rời đi đột nhiên mắc tại cuống họng.
Đôi mắt của hắn như cơn mưa ngoài kia, ảm đạm, bi ai, và tiêu điều.
Tâm co thắt, ta run khóe môi, dường như không thể tin vào chính mình, mà vươn đôi tay đầy vết máu này, hướng về phía hắn, hai mắt mờ mịt, khàn khàn bảo.
"Tề Sách, tới đây."
Ta trông thấy khóe môi hắn khẽ cong, trong không trung lay chuyển dư vị an lòng của hắn.
Sau đấy, ta cùng Tề Sách tiến vào bên trong nội thất.
Phủ gia bỏ hoang chín năm, bụi bám đầy dơ bẩn, không có người ở nên không khí dường như thiếu đi mấy phần linh tính mà lạnh lẽo hoang sơ.
Tề Sách nhỏ giọng bảo ta ở yên một chỗ đợi hắn, sau đấy xoay người bắt đầu tìm kiếm khắp phòng.
Ta nhìn hai bàn tay bấy nhầy máu thịt của mình, cũng đoán được hắn muốn tìm vải trắng cùng thuốc sạch.
Trông về bóng lưng cao lớn của hắn ra sức tìm kiếm, ta không khỏi thầm nghĩ, đúng là đồ ngốc.
Một phủ gia bị bỏ hoang trong thời gian dài đến như thế làm sao còn vải trắng cùng thuốc nữa đây?
Hầu Gia vốn quyền thế ngập trời, tài năng tỏa sáng khắp nơi, người người kính phục, lại chỉ vì một chữ tình, mà xoay sở như ngốc tử.
Trông lúc mơ màng, ta trông thấy cách đấy không xa có một cánh cửa đóng khép hờ, cửa sơn màu đen, khắc hoa văn hải đường tinh tế, vươn đầy bụi bẩn.
Ta đột nhiên nhớ, căn phòng đó chính là thư phòng của phụ thân lúc còn tại thế.
Ta bước tới, nhẹ nhàng đẩy cửa, lập tức âm thanh cót két vang lên, thư phòng lập tức hiện ra trước mắt.
Bụi bay lên không trung, như một cảnh trong mộng, lượn lờ dưới ánh sáng thiên lôi hắt vào.


Bóng ta in hằn lên mặt đất.

Đây là lần đầu tiên ta bước chân vào nơi này.
Ngày ấy khi còn ở kinh đô, thư phòng của phụ thân sẽ luôn có một ổ khóa đóng lại, bất nhập bất xâm, bất kể người nào, chỉ trừ mỗi ngài.
Bây giờ ổ khóa đã sớm mất, cũng không còn gì có thể cản ta lại.
Thư phòng cũ của phụ thân rất rộng, so với cái ở tòa phủ gia Cẩm Thành thì nó còn rộng gấp đôi.

Trong đây đại đa số là những bức họa cổ kính, những bình sứ quý giá bị bám đầy bụi, ghế thái phi, bàn làm việc còn dang dở một đống sách binh thư yến lược, bút lông sói rơi vãi xuống nền đất, mực đen đã sớm khô cứng, khắp các nơi không chỗ nào không bị lục soát mà đổ vỡ, cách đây ba mươi bước, là một tấm bình phong dựng lớn bị đẩy vào một góc tường thư phòng.
Tấm bình phong bám đầy bụi bẩn, được làm từ khung gỗ bồ đề lâu năm sơn màu đen tuyền, ta dường như nhận ra nó.
Phụ thân từng bảo, lúc lâm thời, nương ta có làm cho ngài một bức bình phong rất đẹp, từng đường nét trên nó đều là chính tay nương ta khắc, thêu, vẽ và sơn lên.
Phụ thân còn bảo, mỗi một bức họa trên tấm bình phong đều là một điều rất ý nghĩa đối với ngài, bình cổ nghìn năm vỡ nát tươm ngài không trách, nhưng chỉ cần tấm bình phong này bị hư hỏng một vết tích nhỏ, cũng đủ khiến phụ thân nặng lòng.
Ta bước đến gần nơi góc tường, đưa mắt quan sát tấm bình phong to lớn này, một thứ đồ lớn đến như vậy, lại tự tay làm từng chút một, có thể thấy được tấm lòng của người làm ra nó đã đặt hết tâm tư đến nhường nào.
Phụ thân có lẽ cũng rất đau khổ khi năm ấy chỉ có thể bất đắc dĩ bỏ lại tấm bình phong mà đem ta rời khỏi chốn kinh đô hoa lệ này.
Ta nhẹ nhàng thổi đi đám bụi bám trên đấy, từng hạt bụi li ti rơi vào không trung, như những tinh linh bé nhỏ, từng chút từng chút một, cảnh tượng trên tấm bình phong dần dần hiện rõ.