Chính anh hình dung được cảnh Hatsumono và Mameha cười với nhau ra sao rồi. Người ta tưởng hai người vui mừng khi gặp nhau, nhưng thật ra, tôi nghĩ, Hatsumono cười vì sung sướng, vì đã tìm ra chúng tôi, còn Mameha thì…nụ cười của cô ấy như che giấu sự tức giận trong lòng. Trong khi cô ấy múa, tôi thấy hàm xai của cô ấy bạnh ra, hốc mũi phập phồng. Khi múa xong, cô ấy không đến bàn mà nói ngay với ông nhạc trưởng:
- Xin cám ông đã cho phép chúng tôi ghé vào chơi. Tôi nghĩ bây giờ quá trễ rồi...Sayuri và tôi xin cáo lỗi…
Tôi không làm sao tả hết cho anh nghe vẻ hả hê trên khuôn mặt của Hatsumono khi chúng tôi đi ra ngoài. Tôi theo Mameha xuống cầu thang. Khi đến bậc thang cuối cùng, cô ấy dừng lại chờ. Cuối cùng một cô hầu chạy ra hành lang trước để xem chúng tôi đi ra – chính cô hầu đã dẫn chúng tôi lên lầu hồi nãy.
- Nhiệm vụ người hầu của cô sao mà khó khăn quá nhỉ - Mameha nói với cô ta – có lẽ cô muốn nhiều thứ mà tiền thì lại ít, không đủ chi tiêu chứ gì? Mà này, cô cho tôi biết số tiền cô vừa kiếm được cô sẽ tiêu vào việc gì.
- Thưa bà, tôi không có tiền gì hết – chị ta đáp. Nhưng cứ nhìn cách chị ta sượng sùng, tôi biết chị ta nói láo.
- Hatsumono hứa sẽ cho cô bao nhiêu tiền?
Bỗng chị hầu cụp mắt nhìn xuống sàn nhà. Bây giờ tôi mới hiểu ra Mameha muốn nói cái gì. Sau đó một lát, chúng tôi biết Hatsumono đã hối lộ cho ít ra là một gia nhân trong các phòng trà hạng nhất ở Gion. Họ có nhiệm vụ gọi cho Yoko – cô gái giữ điện thọai ở nhà kỹ nữ của chúng tôi – để báo Mameha và tôi đến dự tiệc ở đâu. Dĩ nhiên là khi ấy tôi không biết chuyện Yoko có dính líu vào đấy, nhưng Mameha đã đoán đúng khi cho rằng chị hầu ở phòng trà này đã gởi tin cho Hatsumono biết.
Chị hầu không dám ngước mắt nhìn lên Mameha. Thậm chí khi Mameha đỡ cằm chị ta lên, chị vẫn nhìn xuống như thể hai mắt có đeo hai viên chì. Khi chúng tôi rời khỏi phòng trà, chúng tôi nghe tiếng của Hatsumono từ trên cửa sổ vọng xuống – vì cửa ngõ hẹp nên tiếng gì cũng vang vọng xuống đấy hết.
- Phải, tên cô ta là gì? – Hatsumono hỏi.

- Sayuri – một người đàn ông nói.
- Không phải Sayoko mà là Sayuri – người khác nói.
- Tên ấy đúng đấy – Hatsumono trả lời – nhưng cô ta trông rất ngượng ngập, biết nói sao với ông! Cô ta trông cũng xinh…
- Tôi chưa tiếp xúc nhiều với cô ta – một ông nói – nhưng cô ta rất đẹp.
- Cặp mắt rất kỳ lạ - một geisha nói.
- Quý vị có biết tôi nghe một ông mới đây nói sao về cặp mắt của cô ta không? – Hatsumono nói – ông ta nói cặp mắt có màu sắc như màu của con giun chết.
- Giun chết…Tôi chưa bao giờ nghe ai nói có màu gì giống như màu giun chết hết.
- Thôi, để tôi kể chuyện về cô ấy cho quý vị nghe – Hatsumono nói tiếp – nhưng quý vị phải hứa là không nói lại cho ai biết chuyện này. Cô ta có bệnh truyền nhiễm, ngực cô ta như ngực bà già, chảy xuống và nhăn nheo, thật khiếp! Tôi đã có lần thấy cô ta trong phòng tắm.
Mameha và tôi đã dừng lại để nghe, nhưng khi nghe đến chuyện này, cô ấy đẩy nhẹ tôi đi và chúng tôi cùng ra khỏi đường hẻm. Mameha đứng lại một lát, nhìn lên nhìn xuống trên đường rồi nói:

- Tôi đã suy tính chúng ta đi đâu, nhưng…tôi không tìm ra chỗ nào hết. nếu con mẹ ấy đã tìm ra chúng ta ở đây, thì chắc cũng sẽ tìm ra chúng ta ở chỗ khác trong Gion. Bây giờ cô hãy về nhà đã, đợi cho đến khi ta tìm ra kế hoạch rồi hãy hay.
Mấy năm sau ngày xảy ra những chuyện tôi vừa mới kể cho anh nghe, đại chiến thế giới lần thứ hai bùng nổ. Vào một buổi chiều trong thời gian xảy ra chiến tranh này, trong một buổi tiệc tổ chức dưới tàn cây thích, một ông sĩ quan rút súng ra khỏi bao, để trên chiếc chiếu rơm để hù dọa tôi. Tôi nhớ khẩu súng đẹp đã làm cho tôi kinh ngạc. Ánh thép màu xám láng lẩy, những đường cong hài hòa tuyệt hảo, báng súng bằng gỗ dầu nổi vân thật nhiều. Nhưng khi tôi nghĩ đến mục đích giết người của khẩu súng, tôi thấy khẩu súng hết đẹp.
Sau khi tôi bị Hatsumono tìm cách phá bước đường vào đời của tôi, dưới mắt tôi, cô ta chẳng khác nào khẩu súng tàn bạo mà đẹp đẽ đấy cả. Nói thế không có nghĩa là trước đó cô ta không tàn bạo. Nhưng trước đó tôi thường ganh với sắc đẹp của cô ta, còn bây giờ thì không. Trong khi đáng ra hàng đêm tôi được đi đến các buổi đại tiệc và ngoài đại tiệc tôi còn có thể đến dự từ 10 đến 15 nơi có tiệc nhỏ, thì tôi phải ngồi ở nhà, tập múa và tập đàn. Khi Hatsumono đi qua hành lang trước mặt tôi, mặc quần áo lộng lẫy, mặt tô trắng toát trên nền áo màu sẫm y như mặt trăng trong một đêm có sương mờ, tôi nghĩ ngay cả người mù chắc cũng biết cô ta đẹp. Thế nhưng tôi chỉ cảm thấy căm thù cô ta, tai tôi nghe rõ tiếng trái tim mình đập thình thịch.
Trong mấy ngày sau đó, tôi được Mameha gọi đến nhà cô ấy nhiều lần. Mỗi lần đến là tôi hy vọng cô ta cho tôi biết đã tìm ra cách tránh được Hatsumono, nhưng cô ấy chỉ nhờ tôi đi làm những công việc lặt vặt mà cô không tin vào người giúp việc. Một buổi chiều, tôi hỏi cô ấy đã tìm ra được biện pháp gì cho tôi chưa, cô ấy đáp:
- Tôi nghĩ cô cứ ở nhà một thời gian đi đã. Tôi mong sao cô có quyết tâm cao để hủy diệt con mẹ đàn bà độc ác ấy đi! Nhưng trong khi chưa có kế hoạch, cô không nên theo tôi đi khắp Gion làm gì.
Dĩ nhiên tôi rất buồn khi nghe cô ấy nói như thế, nhưng Mameha đã nói đúng. Hành động phá phách của Hatsumono sẽ làm cho tôi trở thành lố bịch dưới mắt các ông các bà ở Gion, cho nên tốt hơn hết là tôi nên tạm ở nhà.
May thay, Mameha là người giỏi xoay sở, cô ấy đã tìm cách liên hệ các nơi an toàn để thỉnh thoảng đưa tôi đến đấy. Hatsumono có thể cô lập tôi ở Gion, nhưng cô ta không thể cô lập tôi khỏi thế giới bên ngoài Gion. Khi Mameha rời khỏi Gion đi xa để thực hiện hợp đồng, cô ấy thường mời tôi đi theo. Tôi đã theo cô ấy đến Kobe bằng xe lửa một ngày, ở đấy Mameha cắt băng khánh thành một nhà máy mới. Vào dịp khác, tôi theo cô ấy để tháp tùng ông Cựu giám đốc công ty điện báo và điện thoại Nippon đi tham quan Kyoto một vòng bằng xe hơi màu đen. Chuyến đi này đã gây cho tôi một ân tượng thật sâu sắc. Vì đây là lần đầu tiên tôi thấy Kyoto rộng rãi nằm ngoài ranh giới quận Gion nhỏ bé của chúng tôi không kể đến lần đầu tiên đi xe hơi của tôi. Trong những năm sống ở đây, tôi không hề biết là có nhiều người sống rất cơ cực cho đến khi xe của chúng tôi chạy theo bờ sông xuôi Nam, tôi thấy những người đàn bà dơ bẩn cho con bú dưới gốc cây, dọc theo đường rầy xe lửa, còn đàn ông thì ngồi xổm nhổ cỏ dại, chân đi dép rơm rách tả tơi. Tôi không nói ở Gion không có người nghèo, nhưng tôi thấy những nông dân ở đây quá nghèo đến độ không thèm tắm rửa. Tôi không bao giờ tin rằng tôi, đứa nô lệ bị Hatsumono đối xử độc ác rằng khủng khiếp – đã sống cuộc sống tương đối may măn qua giai đọan đại suy thoái kinh tế. Nhưng hôm ấy tôi nhận ra đấy là sự thật.
Một hôm tôi ở trường học về đã gần trưa, tôi thấy có tờ giấy báo tôi đem đồ trang điểm đến nhà Mameha gấp. Khi tôi đến nơi, ông Ichoda, thợ may giống như ông Bekku, đang ở trong phòng sau, buộc dải thắt lưng cho Mameha trước tấm gương soi lớn.
- Trang điểm nhanh lên – Mameha nói với tôi – tôi đã để sẵn áo kimono của cô ở phòng bên kia rồi.

Nhà của Mameha rộng lớn đúng tiêu chuẩn nhà cửa ở Gion. Ngoài phòng chính ra, rộng đến sáu chiếc chiếu cói, cô ấy còn có hai phòng nhỏ hơn, phòng thay áo quần rộng gấp hai lần phòng gia nhân, và một phòng cô ấy ngủ. Trong phòng ngủ, tấm nệm mới trải vải xong, trên nệm, chị giúp việc đã để sẵn chiếc áo kimono cho tôi. Tôi kinh ngạc khi thấy tấm nệm. Vải trải nệm không phải vải mà Mameha đã ngủ đêm trước, vì vải còn láng mướt mịn màng như tuyết mới rơi. Tôi vừa thay chiếc áo vải tôi mang theo đến, vừa phân vân thắc mắc việc này. Khi tôi bắt đầu trang điểm, Mameha nói cho tôi nghe lý do tại sao cô ấy gọi tôi đến.
- Ông Nam tước đã trở về thành phố - cô ấy nói – ông ấy sẽ đến ăn cơm trưa tại đây. Tôi muốn cô gặp ông ấy.
Tôi chưa có cơ hội để nói về ông Nam tước, nhưng Mameha nói ông Nam tước tức là ông Nam tước Matsunaga Tsuneyoshi – ông danna của cô ấy. Ở nước Nhật chúng tôi bây giờ không còn nam tước, bá tước gì nữa, nhưng trước đại chiến lần 2, chúng tôi vẫn còn, và ông Nam tước Matsunaga này là một trong số những người giàu nhất. Gia đình ông ta làm chủ một trong số những nhà ngân hàng lớn của nước Nhật và rất có ảnh hưởng đến nền tài chính của Nhật. Nguyên thủy, người anh cả của ông ta thừa hưởng danh hiệu Nam tước, nhưng ông ấy bị ám sát trong thời gian làm bộ trưởng tài chính trong nội các của thủ tướng Inukai. Danna của Mameha khi ấy đã ngoài ba mươi, không những thừa hưởng chức Nam tước mà còn thừa hưởng tất cả tài sản của người anh, kể cả ngôi nhà đồ sộ ở Kyoto nằm không xa Gion bao nhiêu. Vì công việc kinh doanh, nên ông ta phải ở lại Tokyo nhiều hơn, và cũng còn nhiều việc khác nữa níu chân ông lại đây –vì mấy năm sau tôi biết được chuyện ông ta có tình nhân khác nữa, ở trong khu geisha tại Tokyo. Vài đàn ông giàu có mới có geisha làm tình nhân, nhưng ông Nam tước Matsunaga Tsunegoshi có đến hai tình nhân.
Khi tôi biết ông danna của Mameha sẽ ở chơi cả buổi chiều với cô ấy, tôi mới hiểu ra lý do tại sao nệm trong phòng ngủ trải vải mới.
Tôi vội thay áo mà Mameha đã để sẵn cho tôi – chiếc áo lót màu lục non, còn chiếc kimono có màu nâu đỏ và màu vàng, dưới lai có in hình hàng cây thông. Lúc ấy, một chị hầu của Mameha vừa từ nhà hàng ăn trở về, mang theo cái hộp sơn mài lớn đựng thức ăn trưa cho ông Nam tước. Thức ăn đựng trong đĩa và tô, dùng ăn liền như trong nhà hàng vậy. Dĩa lớn nhất đựng hai con cá ướp muối nướng nằm áp bụng lên dĩa như đang bơi theo dòng nước. Một bên để hai con cua nhỏ hấp hơi, lọai cua lột vỏ. Một hàng muối rắc dọc theo mép dĩa sơn đen làm cho người ta nghĩ chúng bò qua mặt cát.
Mấy phút sau ông Nam tước đến. Tôi nhìn qua khe cửa hở thấy ông ta đứng trên đầu cầu thang để cho Mameha cởi giây giày. Cảm giác đầu tiên của tôi là ông ấy giống như trái hạnh đào hay là trái hồ đào, vì ông ta nhỏ và tròn quay, với nét mặt thô tháp và nặng nề, nhất là quanh hai mắt. Thời ấy để râu là hợp thời trang, nên ông Nam tước để một số lông dài và mềm trên mặt mà tôi nghĩ ông ta cho đó là bộ râu, nhưng tôi thì thấy số lông ấy giống như đám rau thơm rải trên đĩa thức ăn, hay là đám rong biển nhỏ thường được trộn rải rác vào trong cơm.
- Ô Mameha, anh mệt quá! – tôi nghe ông ta nói – anh ghét tàu hỏa chạy lâu như thế này quá!
Cuối cùng ông tuột chân ra khỏi giày, đi qua phòng, bước chân ngắn và nhanh. Từ sáng sớm, người thợ may của Mameha đã mang vào phòng chiếc ghế bành lớn và tấm thảm Ba tư lấy từ phòng chứa đồ nằm bên kia hành lang, ông ta đã kê ghế và lót thảm gần bên cửa sổ. Ông Nam tước ngồi xuống đấy, nhưng chuyện gì xảy ra sau đó tôi không thể nói được vì chị hầu của Mameha đã đến bên tôi, cúi chào xin lỗi rồi nhẹ đẩy cánh cửa để đóng lại, ngăn cách phòng chính với phòng thay áo quần.
Tôi ngồi trong phòng thay áo quần của Mameha suốt một giờ hay hơn nữa trong khi chị hầu đi vào đi ra phục vụ bữa ăn cho ông Nam tước. Thỉnh thoảng tôi nghe Mameha nói nho nhỏ nhưng chủ yếu là ông Nam tước nói. Có lúc tôi tưởng ông ta nổi giận với Mameha nhưng cuối cùng khi nghe đầu đủ câu chuyện tôi mới hiểu rằng ông ta chỉ phàn nàn về một người đàn ông mà ông ta đã gặp vào ngày hôm trước, yêu cầu ông một sự việc riêng tư khiến cho ông tức giận. Cuối cùng bữa ăn xong, chị hầu đem tách trà ra, và Mameha gọi tôi. Tôi bước ra quỳ xuống trước mặt ông Nam tước, cảm thấy người căng thẳng – vì trước đây chưa bao giờ tôi gặp một nhà quý tộc như thế này. Tôi cúi người chào, xin ông bỏ lỗi, lòng nghĩ rằng có lẽ thế nào ông ta cũng phải nói cái gì với tôi. Nhưng ông ta có vẻ cứ nhìn quanh căn phòng, không mảy may chú ý đến tôi.
- Mameha – ông ta nói – bức tranh cuốn mà em thường treo trong góc tường kia ra sao rồi? Đấy là bức tranh tàu vẽ cái gì đấy…xem ra đẹp hơn các bức hiện em đang treo.

- Thưa Nam tước, bức tranh cuốn ở đấy là bài thơ do chính tay của Matsudaira Koichi viết. Bức cuốn treo ở đấy đã gần 4 năm nay.
- Bốn năm à? Thế không phải bức tranh tàu treo ở đấy khi anh đến vào tháng trước sao?
- Không phải…Nam tước đâu có cho em cái vinh dự đón anh đến thăm trong gần ba tháng nay.
- Thảo nào mà anh cảm thấy quá mệt mỏi. Anh thường nói anh phải đi Kyoto nhiều hơn nữa, nhưng cứ việc này rồi việc khác níu kéo anh. Nhìn vào bức tranh cuốn anh vừa nói đến, anh không tin bức tranh đã treo ở đấy 4 năm từ khi anh nhìn thấy nó.
Mameha gọi chị hầu vào, sai chị lấy bức tranh cuốn ở trong tủ. Tôi có nhiệm vụ mở bức tranh ra, tay tôi run run đến nỗi tôi để bức tranh trượt khỏi tay khi tôi đưa lên cho ông xem.
- Hãy cẩn thận, cô em – ông ta nói.
Tôi quá sức bối rối đến nỗi sau khi cúi người xin lỗi, tôi không thể nào không nhìn lui nhìn tới mãi vào mặt ông để xem ông có giận không. Trong khi tôi giữ bức tranh cho ông xem, tưởng chừng như ông nhìn tôi nhiều hơn là nhìn bức tranh, nhưng ánh mắt không phải ánh mắt khiển trách. Một lát sau tôi nhận ra đấy là ánh mắt hiếu kỳ, và chính vì thế tôi lại cảm thấy lúng túng hơn nữa.
- Bức tranh này trông đẹp hơn bức tranh em treo ở hốc tường nhiều, Mameha à – ông nói, nhưng ông vẫn có vẻ cứ nhìn vào tôi, và khi tôi nhìn ông ta, ông ta không chịu quay mắt đi – dù sao thì thư pháp cũng đã xưa lắm rồi – ông ta nói tiếp – em nên hạ cái bức trên hốc tường ấy xuống và treo bức tranh phong cảnh này lên.
Mameha không có lựa chọn nào khác ngoài việc làm theo lời yêu cầu của ông ta, thậm chí cô ấy còn làm ra vẻ như thể cô cho ý kiến của ông ta là chính xác. Khi chị hầu và tôi treo xong bức tranh, và cuốn bức kia lại, Mameha gọi tôi đến để hầu trà cho ông Nam tước. Từ hốc tường nhìn vào, chúng tôi tạo thành cái thế ba chân – Mameha, ông Nam tước, và tôi. Nhưng dĩ nhiên Mameha và ông Nam tước nói chuyện với nhau, còn phần tôi, tôi không làm gì cả ngòai việc chỉ quỳ ở đấy, cảm thấy mình như người ngòai cuộc, như con bồ câu ở trong tổ chim ưng. Trước đây tôi nghĩ tôi có thể xứng đáng ngồi cùng ông Nam tước, nhưng bây giờ tôi không thể không nhận ra một lần nữa rằng tôi không đáng gì hết mà chỉ là một con bé ngu ngốc từ một làng đánh cá đến. Nếu Hatsumono mà có quyền hành, thế nào cô ta cũng đè đầu tôi xuống, bất kỳ người đàn ông nào đến thăm Gion, chắc cũng sẽ không đến gần tôi đâu. Tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ gặp lại ông Nam tước Matsunaga, cũng như không bao giờ tôi gặp lại ông Chủ tịch. Có thể nào Mameha không nhận ra hoàn cảnh vô vọng của tôi và để tôi chết dần chết mòn trong nhà kỹ nữ như chiếc kimono cũ nhưng còn đẹp, người ta treo làm kiểu trong tiệm. Ông Nam tước – người mà tôi bắt đầu nhận ra có tính nóng nảy – nghiêng mình cào cái dấu gì đấy trên mặt Mameha, hành động của ông nhăc tôi nhớ đến bố tôi vào cái ngày tôi thấy ông lần cuối cùng, hôm ấy ông cũng lấy móng tay xoi bụi nằm trong các khe hở trên bàn. Tôi tự hỏi bố tôi sẽ nghĩ gì nếu ông thấy tôi quỳ ở đây trong nhà của Mameha, mặc chiếc áo đắt tiền hơn bất cứ thứ gì mà ông thấy, với ông Nam tước ngồi trước mặt tôi cùng nàng geisha danh tiếng nhất nước Nhật ngồi bên cạnh. Tôi thật không xứng với những gì ở quanh tôi. Nhưng bỗng tôi nghĩ đến chiếc áo lụa mỹ miều trên người tôi, tôi có cảm giác tôi có thể bị đắm đuối vào cái đẹp. Ngay khi ấy, cái đẹp đã làm cho tôi sững sờ kinh ngạc như chính nỗi buồn đã dày vò tôi.